I. Phương pháp soạn thảo Báo cáo Quốc gia.
A. Quy trình soạn thảo Báo cáo.
1. Báo cáo này được soạn thảo theo hướng dẫn tại Nghị
quyết số 5/1 ngày 18/06/2007 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
(HĐNQ LHQ) nhằm kiểm điểm tình hình thực hiện các quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam. Ban soạn thảo đã được thành lập theo cơ chế Nhóm Công tác liên ngành với sự tham gia của các
cơ quan liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy các
quyền con người: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Ban Tôn
giáo Chính phủ (thuộc Bộ Nội vụ), Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Ủy
ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Uỷ ban Dân tộc, Toà án Nhân dân Tối cao và Bộ Ngoại giao. Bộ
Ngoại giao là cơ quan đầu mối soạn thảo Báo cáo.
B. Tổ chức tham vấn ý kiến về Báo cáo.
2. Việt Nam đã cử nhiều đoàn đi học hỏi kinh nghiệm
quốc tế về soạn thảo báo cáo Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ (UPR) như tham dự
Hội thảo tập huấn do Liên hợp quốc (LHQ) tổ chức và dự các phiên bảo vệ
báo cáo UPR tại Hội đồng Nhân quyền; tổ chức các hội thảo trong nước có
sự tham dự của chuyên gia LHQ và một số nước đã bảo vệ báo cáo nhằm giới
thiệu về cơ chế UPR và kinh nghiệm làm báo cáo của các nước này.
3. Báo cáo được xây dựng một cách toàn diện nhờ
sự đóng góp ý kiến tích cực và cụ thể của các cơ quan Chính phủ, đoàn
thể nhân dân và chính quyền địa phương thông qua các cuộc họp tham vấn.
Quá trình tham vấn là cơ hội đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa Nhóm soạn
thảo và các tổ chức xã hội có tính đại diện rộng rãi, trong đó có: Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Liên hiệp Các Tổ
chức Hữu nghị Việt Nam, Hội Luật gia, Hội Nhà báo Việt Nam, Uỷ ban Đoàn
kết Công giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội Bảo vệ Quyền
Trẻ em Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Viện Nghiên cứu Quyền con người,
Hội Nông dân, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam.
II. Thông tin cơ bản về Việt Nam.
A. Giới thiệu chung.
4. Với 64 tỉnh và thành phố, đất nước Việt Nam có diện tích 331.216,6 km2 trải dọc từ vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’
Bắc với phần đất liền nằm trên bán đảo Đông Dương, ở Đông Nam châu Á,
cùng nhiều đảo và quần đảo. Sự trải dài về mặt địa lý và sự đa dạng của
các vùng miền đã tạo nên tính đặc thù và sự giàu có về văn hóa, nhưng
cũng là khó khăn không nhỏ trong việc đảm bảo và thực thi các quyền con
người đối với mọi người dân Việt Nam.
5. Với số dân khoảng 86 triệu người (trong đó 75%
sống ở nông thôn), Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. 54
dân tộc (người Kinh chiếm 86%) chung sống hòa thuận và có những bản sắc
riêng về văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng. Nhiều tôn giáo như Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, trong quá trình du nhập vào Việt Nam, đã
hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa để cùng phát triển hoặc tạo nên
những tôn giáo nội sinh mang đậm sắc thái Việt Nam như Cao Đài, Phật
giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa… Điều đó không chỉ tạo cho Việt Nam nét
đặc thù của một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và là nền tảng cho khối
đại đoàn kết dân tộc suốt hơn 2.000 năm dựng nước và chống ngoại xâm,
mà còn là cơ sở để Nhà nước Việt Nam thực hiện các chính sách chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần của người dân, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo
đảm quyền phát triển nói chung và các quyền con người nói riêng một
cách bình đẳng.
6. Sau hơn 30 năm chiến tranh, Việt Nam phải phát
triển đất nước trong điều kiện đất nước đói nghèo, kinh tế kiệt quệ, cơ
sở vật chất vô cùng thiếu thốn, lại phải khắc phục những hậu quả do
chiến tranh để lại (nạn nhân chất độc da cam, rà phá bom mìn…). Nhờ
chính sách Đổi mới từ 1986, Việt Nam đã có bước ngoặt tích cực về tăng
trưởng kinh tế, tạo đà phát triển đất nước, cải thiện rõ rệt đời sống
vật chất và tinh thần của người dân. Kinh tế thị trường và sự mở cửa của
đất nước cũng có những mặt trái như khoảng cách giàu – nghèo, nông thôn
– thành thị; khả năng hòa nhập của các nhóm dễ bị tổn thương như phụ
nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật… Đây là thách thức
đối với Việt Nam trong việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm
an sinh xã hội, bảo đảm người dân được hưởng thụ đầy đủ các quyền cơ
bản. Những nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Nhà nước Việt
Nam sẽ được xem xét một cách tổng thể trong bối cảnh đặc thù về lịch sử,
đất nước, con người, xã hội nêu trên.
B. Hệ thống Nhà nước.
7. Trải qua lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do,
nhân dân Việt Nam trân trọng giá trị thiêng liêng của các quyền con
người, trước hết là quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do quyết định vận
mệnh của mình, quyền được sống trong sự tôn trọng nhân phẩm. Bản Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau
này là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã khắc ghi những quyền
này. Qua quá trình hoàn thiện để đáp ứng tình hình đất nước, các bản
Hiến pháp năm 1959, 1980 và đặc biệt là Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm
2001) không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền
công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ Nhà nước
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, có trách
nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân.
8. Hiến pháp 1992 quy định cụ thể cơ cấu và chức năng của hệ thống Nhà nước Việt Nam. Quốc hội là
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra với các chức năng lập hiến, lập pháp,
hoạch định chính sách phát triển đất nước và giám sát các hoạt động của
Nhà nước. Mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong đó có Chính phủ,
Tòa án, Viện Kiểm sát và kể cả của Chủ tịch nước đều chịu sự giám sát
của Quốc hội. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính cao nhất của Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý tổng thể
mọi lĩnh vực đời sống xã hội cũng như đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và
pháp luật. Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật cũng như
mọi lĩnh vực đời sống xã hội của địa phương thông qua cơ quan chấp hành
là Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân bầu ra. Với các chức năng tư pháp, Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
9. Việt Nam không ngừng đẩy mạnh cơ chế kiểm tra,
giám sát giữa các cơ quan trong hệ thống Nhà nước, nhất là vai trò lập
pháp và giám sát của Quốc hội, nhằm tăng cường hiệu quả, tính minh bạch
và dân chủ của các thiết chế Nhà nước. Cơ chế giám sát được thúc đẩy một
cách toàn diện trên các khía cạnh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính
minh bạch và dân chủ của hệ thống Nhà nước cũng được tăng cường thông
qua vai trò phản biện xã hội của hệ thống báo chí, truyền thông và các
đoàn thể nhân dân. Báo chí Việt Nam trở thành diễn đàn ngôn luận của các
tổ chức xã hội, nhân dân và là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm
tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan Nhà
nước, góp phần mạnh mẽ vào quá trình chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt
Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) là tổ chức liên minh các dân
tộc, tầng lớp nhân dân, có vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt
động của các cơ quan Nhà nước và đại biểu dân cử (Điều 9 Hiến pháp
1992). MTTQVN cũng tham gia phản biện xã hội đối với các văn bản, chính
sách của Nhà nước trước khi được thông qua. Sự tham gia trực tiếp của
người dân thông qua các cơ chế pháp lý như bầu cử, ứng cử, chất vấn,
khiếu nại, tố cáo và quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở thực sự là cơ chế
giám sát hiệu quả nhất đối với hoạt động của Nhà nước.
III. Bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở cấp quốc gia.
10. Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và
động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế – xã hội và luôn nhất
quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người. Hiến pháp 1992,
văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi công dân có quyền
bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước pháp
luật; quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội; quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt
Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức
khỏe… không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo. Trên cơ sở Hiến
pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền này, phù hợp với
các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền.
11. Qua thực tiễn, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hiểu
rõ quyền con người gắn với độc lập, hòa bình, dân chủ và phát triển.
Việc duy trì một môi trường hòa bình, ổn định từ khi đất nước thống nhất
năm 1975 đến nay là một thành tựu to lớn và cũng là nền tảng vững chắc
cho việc bảo vệ và thực hiện các quyền con người ở Việt Nam. Trong công
cuộc Đổi mới, những điều chỉnh vĩ mô và các chương trình kinh tế xã hội
được chú trọng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ngày càng tốt
hơn đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Những kết quả này đã
tạo tiền đề cần thiết cho việc thực hiện các quyền của người dân trên
mọi lĩnh vực.
12. Việt Nam được quốc tế ghi nhận là một trong những
quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Đây là ưu tiên hàng đầu của
Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy các quyền con người, phù hợp với
hoàn cảnh của đất nước và các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MTTNK) của LHQ.
Việc thực hiện “Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo”
được Chính phủ thông qua vào tháng 5/2002 trên cơ sở Chiến lược Phát
triển Kinh tế Xã hội 2001-2010 đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo
chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,82%
năm 2007 và giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên
đạt MTTNK về xóa đói giảm nghèo.
13. Chính phủ Việt Nam tập trung thực hiện mạnh mẽ và
đồng bộ các Chiến lược Cải cách Tư pháp đến 2020, Xây dựng và Hoàn
thiện Hệ thống Pháp luật đến 2010 (định hướng đến 2020) và Chiến lược
Phát triển Kinh tế Xã hội đến 2010 (lồng ghép các MTTNK) kết hợp với cải
cách hành chính sâu rộng, tăng cường triển khai quy chế dân chủ, thúc
đẩy công bằng và an sinh xã hội… nhằm thúc đẩy đồng thời và hài hòa các
quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mọi người dân, phù
hợp với lợi ích chung của dân tộc, của cộng đồng và những điều kiện đặc
thù của đất nước.
14. Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các nhóm
dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người
khuyết tật (trong đó có các nạn nhân chiến tranh) và người nhiễm
HIV/AIDS. Với mỗi nhóm đối tượng, Nhà nước Việt Nam đều có các cơ chế,
chính sách và ưu tiên cụ thể nhằm bảo vệ, hỗ trợ, tạo cơ hội cho từng
nhóm phát triển và hòa nhập với đời sống xã hội. Luật Phòng chống
HIV/AIDS 2006, Luật Bình đẳng giới 2006 và Luật Phòng chống Bạo lực Gia
đình 2007 là những điển hình về nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Hiện nay Chính phủ cũng đang tích cực xây dựng dự thảo Luật về Người
khuyết tật.
15. Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước nhân
quyền quốc tế chủ chốt, trong đó có Công ước về Quyền Dân sự, Chính trị,
Công ước về Quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hoá; Công ước về Xoá bỏ mọi Hình
thức Phân biệt Chủng tộc, Công ước về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt
Đối xử với Phụ nữ; là nước thứ hai trên thế giới và nước châu Á đầu tiên
tham gia Công ước Quyền Trẻ em; phê chuẩn 17 công ước của Tổ chức Lao
động Quốc tế. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước Quốc tế về Quyền
của Người khuyết tật và hiện đang nghiêm túc xem xét việc ký Công ước
chống Tra tấn. Các văn bản pháp luật trong nước được ban hành hoặc sửa
đổi theo hướng nội luật hóa các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia,
đồng thời không làm cản trở việc thực hiện các công ước này (Điều 3 và
Điều 82 Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật 2008).
16. Việt Nam luôn ủng hộ hoạt động của HĐNQ và hợp
tác đầy đủ với các cơ chế nhân quyền LHQ. Việt Nam đã đón các Báo cáo
viên Đặc biệt (BCVĐB) về Giam giữ Độc đoán và về Tự do Tôn giáo hoặc Tín
ngưỡng (1998) và đang làm thủ tục mời 03 BCVĐB của LHQ về Quyền Giáo
dục, về Quyền được Chăm sóc Sức khoẻ và về Đói nghèo Cùng cực vào thăm
Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình thảo
luận nhằm thành lập cơ chế nhân quyền khu vực ASEAN, tham gia nhiều hội
nghị nhân quyền quốc tế và khu vực khác. Với chủ trương sẵn sàng đối
thoại và hợp tác về quyền con người, Việt Nam đã thiết lập cơ chế đối
thoại với các nước/đối tác Mỹ, EU, Úc, Na Uy, Thuỵ Sỹ đạt kết quả tích
cực trong nhiều năm qua.
Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về thúc đẩy quyền con người, cụ thể:
A. Về các quyền dân sự và chính trị.
17. Quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền tự
quyết định vận mệnh của mình, quyền bầu cử, ứng cử… là những quyền cơ
bản nhất của con người, nhưng phải đến năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với thế giới rằng nước Việt
Nam “đã trở thành một nước độc lập”, người dân Việt Nam mới thực sự được
hưởng các quyền cơ bản này. Và kể từ thời điểm đó đến nay, dù phải trải
qua chiến tranh, mọi người dân Việt Nam luôn được bảo đảm việc thụ
hưởng ngày càng toàn diện và đầy đủ các quyền con người, trong đó có các
quyền dân sự, chính trị.
18. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người. Trên tinh thần đó, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, từ năm
1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13.000 văn bản luật
và dưới luật, trong đó các quyền về dân sự, chính trị được quy định một
cách cụ thể và toàn diện hơn. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận đầy
đủ các quyền con người (Điều 2 và 50). Nội dung các quyền này đã được
thể hiện xuyên suốt qua các chương, mục của Hiến pháp và được cụ thể hoá
tại nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh
vực dân sự, chính trị như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu
Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân
dân, Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân, Luật Tổ chức Tòa
án Nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Báo
chí, Luật Xuất bản, Luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật Đặc xá, Pháp lệnh Tín
ngưỡng Tôn giáo… Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử (Điều 52
Hiến pháp 1992) là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật của Việt
Nam, tạo tiền đề quan trọng cho việc đảm bảo và phát huy các quyền của
người dân trên từng lĩnh vực cụ thể. Các văn bản pháp luật Việt Nam đã
thể hiện đầy đủ các quyền dân sự, chính trị được thừa nhận trong Tuyên
ngôn Nhân quyền Thế giới và các công ước quốc tế về nhân quyền, đặc biệt
là Công ước về Quyền Dân sự Chính trị.
19. Nhà nước Việt Nam nỗ lực xây dựng và kiện toàn
các thiết chế đảm bảo quyền con người trên thực tế. Hệ thống các cơ quan
Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi
ích của công dân được củng cố. Nổi bật là vai trò của Quốc hội trong
việc thực hiện chức năng giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước; việc
bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp; hiệu quả của hệ thống cơ quan
điều tra Nhà nước cũng như vai trò ngày càng tăng của các tổ chức
chuyên môn như các đoàn luật sư, hội luật gia, cơ quan công chứng, văn
phòng trợ giúp pháp luật… Vai trò và tiếng nói của các tổ chức, đoàn thể
nhân dân như Hội Chữ thập Đỏ, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên, Hội Người Cao tuổi… trong việc tham gia quản lý Nhà nước và
xã hội ngày càng được coi trọng.
20. Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng việc bảo đảm
cho mọi người dân quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội một cách
trực tiếp hoặc thông qua người đại diện do họ lựa chọn. Tỷ lệ cử tri đi
bầu cao (hơn 99%) tại kỳ bầu cử Quốc hội khoá XII, tháng 5/2007, cho
thấy người dân ngày càng ý thức rõ hơn về quyền của mình và vai trò quan
trọng của Quốc hội trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước
và xã hội của người dân. Trong mỗi kỳ họp Quốc hội, phần đại biểu Quốc
hội chất vấn các thành viên Chính phủ được truyền hình trực tiếp, ngày
càng đi vào thực chất và trở thành diễn đàn để người dân, thông qua đại
biểu do họ bầu ra, chất vấn chính sách, cách thức điều hành của Chính
phủ, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, thách thức.
21. Phát huy quyền làm chủ của người dân ở cấp địa
phương – nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà
nước, được coi là mục tiêu và động lực đảm bảo thắng lợi của công cuộc
Đổi mới tại Việt Nam. Quy chế Dân chủ ở cơ sở do Nhà nước ban hành năm
1998 đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào
tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chính sách
của Nhà nước, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng; vị trí làm chủ của
người lao động ở cơ sở không ngừng được nâng cao. 100% xã, phường, thị
trấn đã thành lập Ban Thanh tra Nhân dân và 37/64 tỉnh thành chỉ đạo cơ
sở thành lập Ban Giám sát Đầu tư Công cộng.
22. Quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân được tôn
trọng và bảo vệ. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
người dân đã có sự đổi mới tích cực. Từ 2006 đến 2008, tỷ lệ giải quyết
tố cáo khiếu nại của các cơ quan hành chính đạt 83,2%; các cơ quan thi
hành án dân sự địa phương 92,5%. Pháp luật cũng quy định việc đền bù
thiệt hại về vật chất và tinh thần cho những người bị oan sai.
23. Quyền lập hội của người dân được bảo vệ bằng các
đạo luật quan trọng và nhiều văn bản dưới luật liên quan, cụ thể là tại
Điều 69 Hiến pháp 1992, và tại Nghị định số 88/ 2003/NĐ-CP ngày
30/07/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Ở
Việt Nam hiện có 380 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh,
thành phố (so với 115 vào năm 1990); 18 tổ chức công đoàn ngành, 6.020
tổ chức ở cấp địa phương, và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động
trong mọi lĩnh vực xã hội.
24. Việt Nam có khoảng 20 triệu người theo các tôn
giáo khác nhau và 80% người dân có đời sống tín ngưỡng. Nhà nước Việt
Nam nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu chính đáng của con người
và không ngừng phấn đấu đảm bảo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo cho người
dân. Tính đến 2008, ở Việt Nam có 12 tôn giáo, trong đó một số tôn giáo
có đông tín đồ như Phật giáo, Công giáo, Tin lành … . Các sinh hoạt tôn
giáo, đặc biệt các ngày lễ lớn hàng năm của nhiều tôn giáo được tổ chức
trọng thể với hàng trăm nghìn tín đồ tham gia. Đặc biệt, Đại lễ Phật đản
LHQ năm 2008 được tổ chức trọng thể tại Hà Nội với sự tham dự của hơn
4.000 tăng ni, phật tử trong đó có khoảng 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ
74 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Các cơ sở thờ tự liên tục được
cải tạo hoặc xây mới. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu
hành được duy trì và mở rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam
được cử đi đào tạo tại nước ngoài (Mỹ, Pháp, Ý, Ấn Độ …). Các tổ chức
tôn giáo ở Việt Nam chủ động tham gia nhiều hoạt động y tế, văn hoá, xã
hội, nhân đạo… đóng góp cho quá trình xây dựng đất nước, đồng thời có
quan hệ quốc tế rộng rãi; đại diện chức sắc các tôn giáo tham gia nhiều
diễn đàn quốc tế, đối thoại tôn giáo, tín ngưỡng, giao lưu học hỏi, trao
đổi giáo lý, giáo luật tại các diễn đàn lớn như ASEM, ASEAN…
25. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin
của người dân Việt Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng,
đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông
tin đại chúng. Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in
với 850 ấn phẩm, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh,
truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt
đất (đài truyền hình Việt Nam phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam), 80
báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà
xuất bản. Báo chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã
hội, nhân dân, là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã
hội, các quyền tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát
việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt về quyền
con người. Người dân Việt Nam ngày càng tiếp cận tốt hơn với công nghệ
thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet, với khoảng 20 triệu người truy
cập, chiếm 23,5% dân số, cao hơn mức trung bình của châu Á (18%). Ngoài
hệ thống thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân Việt
Nam còn được tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh
truyền hình nước ngoài, như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và nhiều
báo, tạp chí quốc tế lớn khác.
26. Nhà nước Việt Nam chủ trương đảm bảo quyền con
người, song nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo môi
trường lành mạnh cho toàn xã hội, vì lợi ích của mỗi người dân. Mục tiêu
quan trọng của án phạt tù là nhằm giáo dục pháp luật cho người phạm tội
để họ trở thành người có ích và sớm tái hoà nhập với xã hội. Hệ thống
trại giam, nhà tù luôn được đầu tư nhằm từng bước cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của phạm nhân. Quyền cơ bản của người chấp hành án phạt
tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ, như quyền tự do thân thể,
quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn… Phạm nhân thi hành đủ
1/3 án phạt tù, nếu cải tạo tốt, được xét giảm thời gian chấp hành án
mỗi năm một lần. Xuất phát từ chính sách khoan hồng, nhân đạo, vào những
dịp lễ lớn, Nhà nước xem xét đặc xá cho những phạm nhân đáp ứng đủ các
điều kiện theo Luật Đặc xá. Chỉ tính riêng dịp Tết Nguyên đán 2009, hơn
15.450 người đang chấp hành án phạt tù đã được đặc xá tha tù trước thời
hạn.
27. Có thể nói, những thành tựu đạt được trong việc
đảm bảo quyền dân sự, chính trị cho người dân thể hiện cam kết mạnh mẽ
và nỗ lực không ngừng của Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh điều kiện
kinh tế-xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn. Đây là tiền đề quan
trọng để Việt Nam tiếp tục phấn đấu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền
cơ bản của người dân.
B. Về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
28. Đến những năm cuối thập kỷ 80, Việt Nam
vẫn là một nước nghèo; nền kinh tế tăng trưởng thấp, sản xuất
trì trệ; đời sống nhân dân khó khăn; tình trạng thất nghiệp và mù chữ
chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư; nhiều nhu cầu của người dân về vật
chất và tinh thần chưa được đáp ứng… Mặc dù khó khăn như vậy, song
các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân đã được ghi
nhận trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, được thể hiện rõ
trong các chính sách phát triển đất nước của Chính phủ và được thực thi
trên thực tế, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới
toàn diện đất nước.
29. Sau hơn 20 năm Đổi mới, công cuộc phát triển kinh
tế – xã hội ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, bình quân 7,5%/năm.
Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, đóng góp quan trọng
cho phát triển kinh tế, đặc biệt trong vấn đề tạo việc làm và cải thiện
đời sống của người dân. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, không chỉ
tạo động lực cho phát triển kinh tế mà còn giảm bớt gánh nặng cho ngân
sách nhà nước, tạo điều kiện cho Nhà nước tập trung đầu tư nhiều hơn cho
các mục tiêu ưu tiên như giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng công
cộng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ các vùng
khó khăn…
30. Hệ thống luật pháp của Việt Nam từng bước được
bổ sung và hoàn thiện phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội trên cơ
sở phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển hài hòa các mặt
xã hội, bảo đảm cải thiện mọi mặt đời sống của người dân. Với nhiều
nội dung mới, phù hợp với thực tiễn của cuộc sống, Hiến pháp
năm 1992 và hệ thống các văn bản pháp luật như Luật Bảo vệ Sức khỏe
Người dân 1989, Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi và bổ sung năm 2002 và
2006), Luật Giáo dục 1998 (sửa đổi năm 2005), Luật Đất đai 2003, Luật
Bảo hiểm Xã hội 2006, Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006… đã tạo hành lang
pháp lý rõ ràng và tương đối đầy đủ trong việc cụ thể hóa và thực
hiện các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân. Hệ thống pháp
luật của Việt Nam trên lĩnh vực này được đánh giá là đã tiếp cận với
những chuẩn mực quốc tế và tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước.
31. Chính quyền địa phương được phân quyền mạnh
hơn về quản lý tài chính, ngân sách, đầu tư, y tế, giáo dục…
để chủ động triển khai những chính sách phát triển phù hợp với
tình hình của địa phương mình. Các Ủy ban Quốc gia vì Sự tiến bộ của
Phụ nữ, Ủy ban Quốc gia về Người Cao tuổi, Ủy ban Phòng chống Tham nhũng
được thành lập để thực hiện chức năng tư vấn cho Chính phủ về
phương hướng và giải pháp đối với những vấn đề liên quan; tuyên truyền,
phổ biến và vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đồng thời đôn đốc và giám sát việc thực hiện của các cơ quan chính
phủ. Các tổ chức, đoàn thể nhân dân như Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam… đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế – xã hội,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
32. Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược
Phát triển Kinh tế Xã hội 2001 – 2010, Tầm nhìn đến 2020, lồng ghép chặt
chẽ các MTTNK nhằm ưu tiên và tạo bước chuyển mạnh trong công tác xoá
đói giảm nghèo; đổi mới giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân;
giảm thất nghiệp và tạo việc làm; phát triển mạng lưới an sinh xã hội và
xây dựng kết cấu xã hội bền vững.
33. Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác
định là mục tiêu xuyên suốt của quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở
Việt Nam. Sau hơn 20 năm Đổi mới, mức sống của các tầng lớp dân cư được
cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 200
USD/người (năm 1990) lên 1024 USD/người (năm 2008). Tỷ lệ hộ nghèo
theo chuẩn nghèo quốc gia từ hơn 60% vào năm 1990 đã giảm xuống còn
13,8% năm 2008. Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam từng bước được
nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế.
34. Nhà nước Việt Nam coi đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư cho phát triển. Ngân sách cho giáo dục tăng hàng năm,
chiếm 20% tổng chi ngân sách Nhà nước. Mạng lưới trường học được phát
triển đều khắp. Năm 2000, Việt Nam công bố hoàn thành phổ cập tiểu học,
vượt trước 15 năm so với thời hạn của MTTNK. Việt Nam đang tiến hành phổ
cập trung học cơ sở. Tính đến hết năm 2007, 42/63 tỉnh thành đã đạt
chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Hiện nay, Việt Nam được
UNESCO xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo dục.
35. Việt Nam tạo điều kiện để mọi người dân thụ hưởng
quyền được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên các đối tượng phụ nữ, trẻ em và
người dân tộc thiểu số. Các chương trình, chính sách có tính chiến lược
như tiêm chủng cho trẻ em, hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi, phòng chống lao, phòng chống
HIV/AIDS… đã mang lại hiệu quả tích cực. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5
tuổi giảm từ 58‰ (1990) xuống còn 25,9‰ (2007), dưới 1 tuổi từ 31‰
(2001) xuống còn 16‰(2007); tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em chỉ còn 21,2%
(2007); tỷ lệ tử vong ở phụ nữ sau sinh giảm từ 233/100.000 trẻ đẻ sống
(1990) xuống 75/100.000 trẻ (2007). Hầu hết các xã đặc biệt khó khăn
tại các vùng dân tộc thiểu số đã có trạm y tế; đa số thôn, bản có y
tế cộng đồng, góp phần cơ bản ngăn chặn các bệnh dịch xã hội hiểm
nghèo, nâng cao sức khoẻ, cải thiện đời sống đồng bào.
36. Việt Nam đang tích cực triển khai Chương trình
Mục tiêu Quốc gia về Việc làm 2006 – 2010, tập trung vào chính sách cho
vay giải quyết việc làm thông qua Quỹ Quốc gia về Việc làm và các Dự án
Hỗ trợ, góp phần đẩy nhanh quá trình tìm kiếm việc làm của người lao
động. Trong 8 năm thực hiện (2001 – 2008), cả nước đã có 12,44 triệu
việc làm mới, trong đó thông qua các chương trình phát triển kinh tế –
xã hội là gần 9,3 triệu, thông qua Quỹ Quốc gia về Việc làm là hơn 2,6
triệu. Kể từ 01/01/2009, lần đầu tiên Việt Nam áp dụng chính sách bảo
hiểm thất nghiệp, góp phần trợ giúp tối đa cho người lao động trong quá
trình tìm kiếm việc làm. Đây là một bước tiến bộ đáng ghi nhận của Việt
Nam nếu so với các nước có cùng trình độ phát triển.
37. Hiến pháp 1992 nêu rõ công dân có quyền tham gia
sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa
(Điều 60). Chính phủ Việt Nam không ngừng xây dựng và triển khai các
chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần ngày càng cao của người dân. Bên cạnh các cơ chế chính sách
khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cho lĩnh vực văn
hoá, Chính phủ cũng ban hành chính sách khuyến khích bảo tồn và phát huy
văn hoá truyền thống của dân tộc, nhất là của các dân tộc thiểu số,
trong đó có bảo tồn tiếng nói và chữ viết. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng
được một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thống nhất
trong sự đa dạng của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.
38. Thành công về tăng trưởng và ổn định kinh tế
trong 20 đổi mới vừa qua đã góp phần không nhỏ để đảm bảo ngày càng tốt
hơn không chỉ các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội cho mọi người dân mà
còn cả các nhóm quyền khác.
C. Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
1. Trẻ em.
39. Nhà nước Việt Nam luôn cam kết bảo vệ các quyền
và lợi ích của trẻ em và tạo mọi điều kiện để trẻ em được thực thi đầy
đủ các quyền của mình, thể hiện trước hết qua các quy định của Hiến pháp
(Điều 65) và một số văn bản pháp luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình
sự, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Phòng chống
HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Điện ảnh,
Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình, Luật Tương trợ Tư pháp. Đặc biệt,
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em (sửa đổi 2004) đã cụ thể hoá
các nguyên tắc cơ bản của Công ước Quyền Trẻ em mà Việt Nam là thành
viên, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc không phân biệt đối xử và vì lợi ích
tốt nhất của trẻ; trao cho trẻ em nhiều quyền hơn, từ những quyền mang
tính thụ động như quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ đến những
quyền mang tính chủ động là quyền bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã
hội.
40. Hệ thống các cơ quan bảo vệ quyền trẻ em bao gồm
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em, Hội Cứu trợ
Trẻ em Tàn tật, Hội Bảo trợ Người Tàn tật và Trẻ Mồ côi Việt Nam. Hệ
thống tổ chức của các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất cả
các cấp trong toàn quốc.
41. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích
lệ về đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em. Bên cạnh Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 đang được tích cực
triển khai, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em cũng được lồng ghép
vào các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện
cho trẻ em ngày càng được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình. Các
chương trình khám chữa bệnh miễn phí, các biện pháp giảm tỷ lệ tử vong
trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng đã được triển khai khá hiệu quả (khoảng
8,4 triệu trẻ, chiếm trên 90% trẻ em dưới 6 tuổi, được phát thẻ khám
chữa bệnh miễn phí). Tỉ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ngày càng cao
(năm học 2005 – 2006, tỷ lệ học sinh tiểu học đạt 95,04%, trung học cơ
sở đạt 80,3%); tỷ lệ học sinh bỏ học giảm dần; nhiều chính sách quan
tâm, ưu đãi được dành cho trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em di
cư, trẻ em người dân tộc thiểu số… Cơ bản đã tạo được môi trường vui
chơi giải trí an toàn, lành mạnh cho trẻ em (có khoảng 40% xã, phường và
80,3% số quận, huyện có điểm vui chơi cho trẻ em; 100% thư viện cấp
tỉnh và 30% ở cấp huyện có phòng đọc dành cho trẻ em…). Trẻ em được tạo
điều kiện bày tỏ ý kiến, tham gia vào hoạt động văn hóa, xã hội ở trường
học và cộng đồng thông qua các diễn đàn quốc gia, quốc tế, Đội Thiếu
niên Tiền phong, Câu lạc bộ Phóng viên nhỏ…
42. Tuy nhiên, việc đảm bảo các quyền của trẻ em
trong thời gian qua vẫn còn những thiếu sót do những khó khăn, thách
thức đặt ra từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở hạ tầng trong
nước lạc hậu, năng lực quản lý của các cơ quan hữu quan trong việc hoạch
định, triển khai các chính sách giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em còn
hạn chế.
2. Phụ nữ.
43. Việt Nam luôn cam kết vì sự tiến bộ của phụ nữ và
bình đẳng giới, coi đó là một công cụ quan trọng để tiến tới công bằng
và phát triển bền vững. Quan điểm này được thể hiện trong Hiến pháp,
Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Đất đai,
Luật Phòng chống HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống Bạo lực
Gia đình và nhiều văn bản pháp luật khác về bình đẳng giới. Việt Nam
đang tích cực triển khai trên toàn quốc Chiến lược Quốc gia vì sự Tiến
bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, đến nay nhiều chỉ tiêu đã đạt trước
kế hoạch. Quan điểm giới cũng được lồng ghép vào nhiều văn bản quốc gia
quan trọng như Chiến lược Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo, Kế hoạch
Phát triển Kinh tế – Xã hội 2005-2010, các chiến lược phát triển ngành…
Hiện Việt Nam đang nỗ lực xây dựng Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới
cho giai đoạn 2011-2020.
44. Hệ thống các cơ quan, tổ chức tham mưu và thúc
đẩy sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Uỷ
ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Hệ thống tổ chức của các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất
cả các cấp trong toàn quốc.
45. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích
lệ về đảm bảo các quyền của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đạt
25,76% (nhiệm kỳ 2007-20011), đứng thứ 4 ở khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương. 83% nữ giới trong độ tuổi lao động có việc làm. Phụ nữ có mặt ở
hầu hết các cơ quan hành chính và doanh nghiệp Nhà nước, với 68,7% cán
bộ công chức và 30% chủ doanh nghiệp là nữ. Phụ nữ còn tham gia tích cực
trong các tổ chức chính trị-xã hội và chiếm khoảng 30% trong ban chấp
hành các cấp. Phụ nữ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất/quyền sở hữu nhà ở cùng với người chồng, được hưởng quyền bình đẳng
như nam giới trong vấn đề quốc tịch. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn của nữ
là 91%; 30% số người có trình độ sau đại học là nữ. Tuổi thọ trung bình
của phụ nữ là 73 trong khi nam giới là 70. Phụ nữ có quyền được nghỉ 4
tháng sau khi sinh con, hưởng nguyên lương và được phụ cấp thêm 1 tháng
lương nữa.
46. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số phát
triển con người (HDI) và chỉ số giới (GDI) của Việt Nam là 105/177 nước
và 91/157. Việt Nam có tên trong danh sách các nước xây dựng được số đo
về sự trao quyền cho giới (GEM) với vị trí 52/93 nước. Theo Ngân hàng
Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á, "Việt Nam là một trong những
nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là
một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới… là quốc gia
đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xoá bỏ khoảng cách giới trong
20 năm qua ở khu vực Đông Á".
47. Trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam quyết tâm
khắc phục một số vấn đề còn tồn tại như tình trạng phân biệt đối xử,
ngược đãi và bạo hành đối với phụ nữ, nạn mại dâm và nâng cao tỷ lệ phụ
nữ tham chính ở các cấp.
3. Dân tộc thiểu số.
48. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong
vấn đề dân tộc là các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau
cùng tiến bộ. Nguyên tắc này được thể hiện trong Hiến pháp 1992 (Điều 5,
36, 39, 133) và các văn bản luật như: Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Quốc
tịch, Luật Khuyến khích Đầu tư Trong nước, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật
Công nghệ Thông tin, Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng, Luật Giáo dục,
Luật Xuất bản, Luật Thanh niên, Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em,
Luật Bảo vệ Chăm sóc Sức khoẻ Nhân dân, Luật Tương trợ Tư pháp, Luật
Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Dạy nghề.
49. Hệ thống các cơ quan, tổ chức tham mưu và giúp
thực hiện các quyền của người dân tộc thiểu số bao gồm Uỷ ban Dân tộc
(cơ quan ngang Bộ), Hội đồng Tư vấn Dân tộc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội
Bảo vệ Quyền Trẻ em Việt Nam với phạm vi hoạt động ở tất cả các cấp
trong toàn quốc.
50. Việt Nam đang triển khai hai chương trình mục
tiêu quốc gia là Chương trình Hỗ trợ Đất Sản xuất, Đất ở, Nhà ở và Nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn
(Chương trình 134) và Chương trình Phát triển Kinh tế-Xã hội các xã đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu,
vùng xa (Chương trình 135). Việc triển khai các chương trình này đã góp
phần nâng cao rõ rệt đời sống của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa;
cải thiện cơ sở hạ tầng, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với khoa
học, kỹ thuật và áp dụng vào sản xuất, nâng cao ý thức trách nhiệm và
đóng góp của người dân trong việc thúc đẩy phát triển và thu hẹp khoảng
cách vùng miền. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng đề ra các chính sách
trợ cước trợ giá, cho hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn vay vốn phát
triển sản xuất, định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ
trợ một số dân tộc thiểu số có số dân rất ít người, cấp miễn phí 18 loại
báo, tạp chí cho người dân ở vùng khó khăn.
51. Những chủ trương, chính sách trên đã giúp đồng
bào dân tộc thiểu số ngày càng bình đẳng hơn trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ngày càng có nhiều cán bộ người dân tộc thiểu số giữ các
chức vụ quan trọng trong các cơ quan chính quyền từ cấp trung ương cho
đến địa phương. Quốc hội khoá XII có 87 đại biểu là người dân tộc thiểu
số, chiếm 17,65%. Tỷ lệ hộ nghèo đói trong đồng bào dân tộc thiểu số
giảm nhanh, bình quân khoảng 3-5%/năm. Các vùng đặc biệt khó khăn được
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: 96% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô
tô đến trung tâm xã; 100% số huyện và 95% xã đã có điện. 100% các xã có
trường tiểu học, nhà mẫu giáo; 100% các huyện đều có trường trung học
phổ thông. Đến cuối năm 2007, 71% số xã đặc biệt khó khăn đã hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 80% số xã đã hoàn thành phổ
cập trung học cơ sở. 100% số huyện đã có trung tâm y tế và bác sỹ, cán
bộ y tế; một số dịch bệnh thường gặp ở vùng dân tộc và miền núi như sốt
rét, bướu cổ, phong, lao được ngăn chặn và đẩy lùi; công tác bảo vệ,
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng có nhiều
tiến bộ.
52. Văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số được
quan tâm giữ gìn và phát triển. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên, di sản văn hóa vô giá của đồng bào dân tộc, đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Tiếng nói và chữ
viết của các dân tộc thiểu số đang được chú ý bảo tồn và
ngày càng được sử dụng phổ biến hơn. Việt Nam có 30 dân tộc có
chữ viết. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng 8 bộ giáo trình
cho 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số (Khơ-me, Chăm, Hoa, Ê-đê, Gia-rai,
Ba-na, Thái và Mông), chính thức đưa vào dạy trong các trường
tiểu học và trường phổ thông dân tộc ở 25 tỉnh có tỷ lệ người dân
tộc thiểu số cao. Đài Truyền hình Việt Nam đã phát kênh VTV5 bằng 10
thứ tiếng dân tộc; Đài Tiếng nói Việt Nam đã tăng thời lượng phát
sóng và sản xuất hơn 4.000 chương trình đặc biệt phát bằng 13 thứ
tiếng dân tộc, giúp đồng bào dân tộc tiếp cận thông tin tốt hơn.
4. Người khuyết tật.
53. Hiện nay Việt Nam có hơn 5,2 triệu người tàn tật,
chiếm 6,63% dân số. Nhà nước Việt Nam luôn khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định
đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người
khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi
chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy
định của pháp luật. Quan điểm này phản ánh quy định trong Hiến pháp 1992
và được cụ thể hoá trong một số văn bản luật quan trọng như Bộ luật Lao
động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục
Trẻ em, Luật Trợ giúp Pháp lý, Luật Công nghệ Thông tin, Pháp lệnh về
Người Tàn tật.
54. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên
trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương xây dựng và triển khai kế hoạch dài
hạn về người khuyết tật do UNESCAP đề xướng. Việt Nam cũng đã ký Công
ước Quốc tế về Quyền của Người Khuyết tật và đang tích cực chuẩn bị để
phê chuẩn công ước này. Việt Nam đã xây dựng hệ thống các cơ quan, tổ
chức có phạm vi hoạt động ở tất cả các cấp trong toàn quốc nhằm bảo vệ
các quyền và lợi ích của người khuyết tật bao gồm Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội, Hội Bảo trợ Người Tàn tật và Trẻ Mồ côi, Hội Cứu trợ Trẻ
em Tàn tật Việt Nam, Hội Người mù, Hội Nạn nhân Chất độc Da cam/Dioxin
Việt Nam, Ban Điều phối Hỗ trợ hoạt động của Người Tàn tật, Hiệp hội Sản
xuất Kinh doanh của Người Tàn tật.
55. Nhà nước Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện để các
quyền của người khuyết tật Việt Nam ngày càng được đáp ứng tốt hơn.
Nhiều người khuyết tật nặng, thương binh, bệnh binh, người bị di chứng
chất độc da cam, trong đó có trẻ em, được Nhà nước trợ cấp và nuôi
dưỡng. Mạng lưới chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng cho người khuyết
tật đã được thiết lập từ trung ương đến cơ sở. Trong 10 năm qua, trên
300.000 người, trong đó có hàng chục ngàn trẻ em, được chỉnh hình phục
hồi chức năng và cung cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí, được cung cấp
phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy; hàng trăm nghìn người khuyết
tật được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Việt Nam đang xây dựng mô hình giáo dục
hòa nhập, chuyển đổi và thẩm định sách giáo khoa chữ phẳng sang chữ nổi
Braille, xây dựng hệ thống ngôn ngữ kí hiệu, thống nhất hệ thống chữ cho
người mù. Hàng năm số trẻ khuyết tật đi học ở bậc trung học và bậc đại
học đều tăng, nhiều học sinh khuyết tật đạt kết quả cao trong học tập.
Cho đến nay có khoảng 100 cơ sở hướng nghiệp dạy nghề cho người khuyết
tật và có khoảng 35.000 người khuyết tật được học nghề. Các công trình
xây dựng công cộng, giao thông, văn hoá, thể dục thể thao đã được xây
dựng, cải tạo để phù hợp hơn với chuẩn của người khuyết tật. Đối với
những nạn nhân chất độc da cam/dioxin, một đặc thù của người khuyết tật
Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước đã có nhiều hình thức hỗ trợ nạn nhân trong cuộc sống, học tập,
lao động, sản xuất, chăm sóc sức khoẻ, với số tiền lên đến hàng chục tỷ
đồng.
56. Ngoài những thành tích nêu trên, nhìn chung đời
sống của người khuyết tật Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là
những đối tượng thuộc diện nghèo. Điều kiện giáo dục, đào tạo nghề cho
người khuyết tật vẫn còn nhiều hạn chế; vẫn còn tình trạng kỳ thị và
phân biệt đối xử trong giáo dục, ở nơi làm việc, trong các hoạt động
cộng đồng. Đây cũng là những vấn đề mà Việt Nam sẽ cố gắng khắc phục
trong thời gian tới.
IV. Các kinh nghiệm thành công và thách thức.
A. Bài học kinh nghiệm thành công.
1. Bài học thứ nhất: đặt nhân tố con người vào trung tâm của sự phát triển đất nước.
57. Mọi sự phát triển chỉ có ý nghĩa khi nó là của
mỗi con người và vì mỗi con người. Khi con người được đặt vào vị trí
trung tâm của sự phát triển, thì sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển
của nguồn lao động, cũng như sự phát triển các lĩnh vực khác của xã hội
cũng đều vì mục tiêu phát triển con người và vì hạnh phúc của con người.
Chính vì vậy, Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động
lực của sự nghiệp phát triển đất nước. Mọi chính sách phát triển của
Việt Nam luôn lấy con người làm trung tâm: phát triển kinh tế vì con
người; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân
trí, bảo vệ và cải thiện môi trường.
58. Thông qua hoạt động lập pháp, Quốc hội đã tạo lập
được khung pháp lý cho sự phát triển bền vững và toàn diện của đất
nước. Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã thiết lập những chế định
quan trọng nhất, định hướng cho sự phát triển của Nhà nước, điều chỉnh
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội, đảm bảo sự thống
nhất giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường. Chính phủ Việt Nam đã triển khai các Chiến lược Xây dựng và Hoàn
thiện Hệ thống Pháp luật, Chiến lược Cải cách Tư pháp, Chương trình Cải
cách Hành chính… nhằm mục tiêu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, phù hợp
với yêu cầu xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm các quyền con người, quyền
tự do, dân chủ của công dân.
2. Bài học thứ hai: các quyền con người không thể tách rời độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
59. Mỗi cá nhân không thể có quyền tự do, không thể
được bảo đảm các quyền cơ bản nếu như họ sống trong một đất nước chưa
giành được độc lập, tự do. Độc lập dân tộc là điều kiện, cơ sở cho việc
bảo đảm quyền con người. Giải phóng con người, trong đó có việc bảo đảm
các quyền con người, gắn liền với giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội;
chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc thì quyền con người mới có điều kiện
được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất.
60. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên
cường qua nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng, quyền
thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình. Dân
tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do và có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực
và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, được sống trong độc lập, tự do,
dân chủ với tất cả quyền con người của mình và được bảo vệ bằng Hiến
pháp và pháp luật. Từng người dân Việt Nam đã và đang tích cực triển
khai thực hiện dân chủ nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát triển mọi tiềm lực của nhân dân để phát triển đất nước. Đó là
thành tựu to lớn, mở ra thời kỳ phát triển mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam. Đó cũng chính là những thành tựu dân chủ, nhân quyền cơ bản
nhất mà nhân dân Việt Nam đã giành được.
3. Bài học thứ ba: kết hợp hài hòa giữa các giá
trị phổ quát của các quyền con người và hoàn cảnh đặc thù riêng của
quốc gia, tăng cường hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực
quyền con người.
61. Từng là nạn nhân của nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược – sự vi phạm lớn nhất quyền con người, hơn ai hết Việt Nam hiểu rõ
rằng quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung
của nhân loại, được ghi trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và
Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội
và cộng đồng. Chính phủ Việt Nam cho rằng việc thực hiện quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, trong
một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con
người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp
quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế – xã
hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của
mỗi quốc gia và khu vực.
62. Do đặc thù là quốc gia đa dạng về dân tộc, tôn
giáo với một nền kinh tế đang phát triển, xuất phát điểm thấp, lại phải
khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, việc bảo đảm và thực
thi các quyền con người ở Việt Nam có những ưu tiên cụ thể phù hợp với
hoàn cảnh của đất nước: Nhà nước tập trung vào các chương trình xóa đói
giảm nghèo, chăm sóc y tế, giáo dục; ưu tiên đặc biệt cho phát triển
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo điều kiện để
người dân có đời sống tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo được tôn trọng và
gắn liền với quyền lợi, trách nhiệm xã hội; tôn trọng và xử lý hài hòa
mối quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo khác nhau; tập trung phát triển
nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung các phương
tiện thông tin đại chúng để đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí và thông tin ở Việt Nam.
63. Tôn trọng tính phổ quát của các quyền con người,
Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế quan trọng nhất về
quyền con người và nhiều công ước quốc tế khác trong lĩnh vực này, đồng
thời nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ thành viên. Đây là nỗ lực to
lớn của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Chính
phủ Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng cam kết và thực thi các công ước
quốc tế về nhân quyền trước hết và chủ yếu là trách nhiệm của quốc gia
thành viên
64. Việt Nam hết sức coi trọng đối thoại và hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Đối thoại và hợp tác quốc tế vừa
là đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, vừa giúp tăng cường hiểu
biết lẫn nhau; qua đối thoại và hợp tác quốc tế Việt Nam đã giúp bạn bè
và cộng đồng quốc tế hiểu hơn về tình hình và hoàn cảnh thực tế của Việt
Nam, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước
trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm tốt hơn các quyền con
người ở Việt Nam và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trong khu
vực và trên thế giới.
4. Bài học thứ tư: giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế kết hợp với đảm bảo an sinh xã hội.
65. Giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước
trong mọi tình huống là nhiệm vụ số một, là yêu cầu sống còn của mọi
quốc gia. Có ổn định chính trị – xã hội, mới có thể phát triển. Nói một
cách khác, bất cứ quốc gia nào mất ổn định đều không có thể phát triển,
thậm chí tụt lùi, phải trả những giá đắt cho sự khôi phục và tồn tại. Để
giữ vững và tăng cường ổn định chính trị – xã hội của đất nước, Việt
Nam chú trọng xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững, bảo đảm cải
thiện mọi mặt đời sống của nhân dân và bảo vệ môi trường sinh thái; một
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; và một hệ thống an sinh xã
hội tiến bộ đảm bảo sự phát triển đầy đủ và hài hòa của mọi người dân.
66. Các chính sách phát triển của Việt Nam thời gian
qua đều gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn
diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Chính vì
vậy, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao và ổn định trong nhiều năm
(bình quân trên 7,5%/năm); song hành với sự gia tăng trong bảng xếp hạng
chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số giới (GDI). Hiện nay, Việt
Nam xếp thứ 64/127 nước trong bảng xếp hạng về phát triển giáo dục của
UNESCO. Mặc dù là nước đang phát triển với GDP bình quân đầu người ở mức
1.000 USD, Chính phủ Việt Nam vẫn dành 15% tổng ngân sách quốc gia cho
các dịch vụ y tế công cộng và giáo dục. Giữ vững ổn định chính trị – xã
hội, phát triển kinh tế đi đôi với việc đảm bảo đảm an sinh xã hội là
điều kiện cho sự phát triển con người bền vững ở Việt Nam.
5. Bài học thứ năm: nâng cao nhận thức và năng lực của người dân trong việc thụ hưởng các quyền.
67. Mỗi người dân là một chủ thể thụ hưởng các quyền
con người và cũng là chủ thể thực hiện các quyền đó. Nhà nước Việt Nam
luôn coi trọng việc nâng cao ý thức người dân trong việc thụ thưởng các
quyền con người trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
68. Vai trò giám sát của nhân dân được tăng cường
thông qua việc công khai và minh bạch hóa các hoạt động của Chính phủ và
Quốc hội. Các phiên họp Quốc hội, đặc biệt là các phiên có trả lời chất
vấn của các thành viên chính phủ, được truyền hình trực tiếp giúp người
dân chủ động tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Cơ chế lấy ý
kiến của người dân đối với các dự luật và chính sách của Nhà nước đang
được áp dụng rộng rãi.
69. Nhà nước ban hành và bổ sung các văn bản pháp
luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò
giám sát và phản biện xã hội. Các cơ quan chính quyền tăng cường tiếp
xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến
phản ánh về những vấn đề mà nhân dân quan tâm. Nhiều chương trình mục
tiêu quốc gia đã được triển khai nhằm trợ giúp pháp lý miễn phí cho
người dân, trong đó có tới 98% là người nghèo, người có hoàn cảnh khó
khăn, người sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số… để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của họ, đồng thời giúp họ nâng cao kiến thức về
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật. Hệ thống báo chí
phát triển mạnh mẽ, không những góp phần đảm bảo cho người dân quyền
được thông tin mà còn trở thành các diễn đàn để người dân chủ động thực
hiện quyền làm chủ và tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp
luật sát hợp với cuộc sống.
70. Một số luật đã được ban hành và sửa đổi nhiều lần
như Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân
dân, Luật Báo chí, Luật Khiếu nại, Tố cáo… ngoài mục đích bảo vệ và thực
thi quyền công dân, còn là công cụ để người dân thực hiện quyền tham
gia đời sống chính trị của mình.
B. Khó khăn và thách thức.
71. Công cuộc Đổi mới trong hơn 20 năm qua đã mang
lại những thay đổi to lớn trên mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội ở Việt Nam, tạo điều kiện cho mọi người dân được thụ hưởng
đầy đủ các quyền con người. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức.
72. Thứ nhất, hệ thống pháp luật của Việt Nam
nói chung, trong lĩnh vực quyền con người nói riêng, còn chưa đồng bộ,
có chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai,
trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật ở cơ sở. Đây chính là vật
cản lớn nhất đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong việc thực
thi các quyền con người. Nhận diện thách thức đó, Chính phủ Việt Nam
đang triển khai Chiến lược Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật
Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trước mắt là rà soát
lại toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn
bản luật mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn;
bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh
bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật
này.
73. Thứ hai, đất nước Việt Nam trải dài hơn
2.000 km từ Bắc xuống Nam, trong đó địa hình núi đồi chiếm ba phần tư
diện tích đất nước. Dân cư sống phân tán trên các vùng miền với ngôn
ngữ, phong tục, tập quán và điều kiện sinh hoạt rất khác nhau. Đặc biệt,
những người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, do
hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục,
thông tin… nên trình độ học vấn còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật,
chính sách cũng như năng lực tuân thủ pháp luật còn hạn chế. Điều này
gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan chính quyền, từ trung ương tới
địa phương, trong việc xây dựng và triển khai các chính sách cụ thể nhằm
đảm bảo các quyền của người dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của đồng bào cũng như thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và
đồng bằng, nông thôn và thành thị.
74. Thứ ba, tuy đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
và ổn định trong các năm qua, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, xuất phát
điểm thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng núi, vùng
sâu, vùng thường bị thiên tai, còn nhiều khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã
dành nhiều ưu tiên cho phát triển các vùng đặc biệt khó khăn thông qua
các Chương trình 134, 135… nhưng do nguồn lực của đất nước còn hạn chế
nên ở nhiều địa phương, cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục,
khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao… còn nhiều thiếu thốn, ảnh hưởng
đến việc hưởng thụ đầy đủ các quyền của người dân.
75. Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị
trường kéo theo những vấn nạn xã hội đáng lo ngại. Thất nghiệp gia tăng;
sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền
còn lớn; những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tình trạng lây nhiễm
HIV/AIDS có chiều hướng lan rộng; tai nạn giao thông ngày càng tăng; môi
trường sống bị ô nhiễm… Bên cạnh đó, những phong tục, tập quán và định
kiến mang tính địa phương vẫn còn nặng nề tạo nên khoảng cách về giới,
nhất là trong nhận thức. Tư tưởng trọng nam khinh nữ; nạn ngược đãi phụ
nữ, bạo lực trong gia đình vẫn tồn tại, nhất là ở những nơi trình độ dân
trí còn thấp. Những vấn nạn này không chỉ ảnh hưởng đến từng người dân
trong việc hưởng thụ các quyền, đặc biệt là quyền sống và quyền của các
nhóm dễ bị tổn thương, mà còn là thách thức đối với các cơ quan chính
quyền trong việc xây dựng và triển khai các chính sách nhằm cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
76. Thứ năm, những biến động của môi trường
quốc tế đang có những tác động tiêu cực tới Việt Nam. Các loại bệnh,
dịch bệnh chưa được giải quyết dứt điểm và tiếp tục diễn biến phức tạp,
đi cùng với biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực
nước biển dâng đã và đang làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn
hán ngày càng nặng nề hơn. Những thách thức này không chỉ ảnh hưởng trực
tiếp tới mỗi người dân mà còn làm phân tán nguồn lực của đất nước, làm
giảm hiệu quả của các chính sách khuyến khích và thúc đẩy phát triển con
người.
77. Thứ sáu, trình độ và nhận thức của một bộ
phận cán bộ Nhà nước, kể cả ở trung ương và địa phương về quyền con
người còn nhiều hạn chế: không chỉ không nắm được các quy định của luật
pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên
của các công ước quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không
chắc các quy định của luật pháp và chủ trương chính sách của Nhà nước,
do vậy có nơi có lúc còn để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và
ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân.
V. Các ưu tiên quốc gia và cam kết.
A. Ưu tiên quốc gia.
78. Nhằm vượt qua những khó khăn, thách thức nêu trên
và để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa trong việc đảm bảo các quyền của
người dân, Nhà nước Việt Nam đã định ra một số ưu tiên cho hoạt động của
mình trong vòng 5 năm tới.
79. Xóa đói giảm nghèo sẽ tiếp tục là một trong các ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam.
Tuy là một trong những quốc gia đầu tiên đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ về
Xoá đói Giảm nghèo trước thời hạn (trước 10 năm so với hạn đề ra của
Tuyên bố Thiên niên kỷ), song những kết quả đạt được chưa thực sự bền
vững. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ: đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo;
củng cố thành quả giảm nghèo; nâng cao chất lượng cuộc sống và điều kiện
sản xuất của nhóm hộ nghèo; hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách về thu
nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi.
Việt Nam đã xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo giai
đoạn 2006-2010, trong đó dành ưu tiên cho đối tượng thuộc các nhóm dễ bị
tổn thương như phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người già, người tàn
tật, trẻ em… với tổng kinh phí khoảng trên 43.000 tỷ đồng và sẽ phấn đấu
để thực hiện chương trình này.
80. Theo Chương trình Quốc gia về Việc làm, Việt Nam
phấn đấu bảo đảm việc làm cho khoảng 49,5 triệu lao động, tạo việc làm
mới cho 8 triệu lao động trong 5 năm 2006 – 2010 và giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu này,
Việt Nam đang và sẽ tiếp tục triển khai các dự án vay vốn tạo việc làm,
hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, hỗ trợ phát triển
thị trường lao động.
81. Việt Nam tiếp tục các chương trình cải cách pháp luật và hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền.
82. Việt Nam đã đề ra Chiến lược Xây dựng và Hoàn
thiện Hệ thống Pháp luật với mục tiêu là xây dựng một hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, một Nhà nước Pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trọng tâm của Chiến
lược này là củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước trong việc thực thi các điều ước quốc tế nhân quyền mà Việt Nam
tham gia; hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, nhất
là tòa án; hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân
cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt
động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; thể chế hóa các chính
sách về công bằng xã hội để đảm bảo mọi công dân được tiếp cận và hưởng
thụ các loại dịch vụ công, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã
hội, xoá đói giảm nghèo.
83. Việt Nam cũng đề ra Chiến lược Cải cách Tư pháp
đến năm 2020, nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, có hiệu quả và hiệu lực cao. Các trọng
tâm triển khai bao gồm:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hỗ trợ
tư pháp theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa
dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân;
- Cải cách thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân
chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, bảo đảm sự tham gia, bảo
đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử;
- Hoàn thiện pháp luật về hình sự theo hướng hạn chế
áp dụng hình phạt tử hình và chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng; quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối
với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật,
những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
84. Việt Nam ưu tiên các chính sách chăm sóc sức khỏe và nâng cao thể chất của người dân như
đẩy mạnh việc chủ động phòng, chống các bệnh xã hội, bệnh dịch nguy
hiểm, phát hiện dịch sớm, xử lý kịp thời, không để dịch lớn xảy ra, đồng
thời nâng cao ý thức bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân; đảm bảo
cung cấp nước sạch, dịch vụ vệ sinh môi trường cho mọi người dân, ưu
tiên hỗ trợ đối tượng nghèo, gia đình chính sách, vùng đồng bào dân tộc
và vùng đặc biệt khó khăn; bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với
các tiêu chuẩn tiên tiến của khu vực và thế giới; từng bước đẩy lùi và
xoá bỏ tệ nạn ma tuý. Các chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống
một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS, về dân số, kế
hoạch hóa gia đình, về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (với
tổng kinh phí khoảng trên 22.000 tỷ đồng), về vệ sinh an toàn thực phẩm
(với tổng kinh phí khoảng hơn 1.000 tỷ đồng), về phòng, chống ma tuý cho
giai đoạn từ 2006-2010 đã được xây dựng và triển khai.
85. Việt Nam ưu tiên phát triển mạng lưới an sinh xã hội, giải quyết mặt trái của kinh tế thị trường. Các
ưu tiên này gồm việc dạng hóa các loại hình bảo hiểm xã hội, quan tâm
đến đời sống vật chất và tinh thần của các nhóm người dễ bị tổn thương:
người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người tàn tật, người cao tuổi, người dân
tộc thiểu số.
86. Việt Nam ưu tiên bồi dưỡng thế hệ trẻ và đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, có kỹ năng nghề nghiệp,
có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân
lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh,
nhà quản lý.
87. Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giáo dục và Đào
tạo đến năm 2010, gồm 7 dự án về phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đổi
mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy, đào tạo
cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường, đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục, hỗ trợ giáo dục miền núi,
vùng dân tộc thiểu số và vùng có nhiều khó khăn, tăng cường cơ sở vật
chất các trường học, tăng cường năng lực dạy nghề, với tổng kinh phí
thực hiện là trên 20.270 tỷ đồng, đa phần là từ ngân sách Nhà nước.
B. Cam kết.
88. Với nhận thức sự nghiệp bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người là một quá trình liên tục và luôn cần sự quan tâm của Nhà
nước, Chính phủ Việt Nam cam kết tiếp tục hợp tác với các quốc gia khác,
với Liên hợp quốc và các cơ quan của tổ chức này để đảm bảo ngày càng
tốt hơn việc thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của con người trên lãnh
thổ Việt Nam và trên toàn thế giới. Cụ thể:
a) Liên quan đến các công ước quốc tế về nhân quyền:
Việt Nam xem xét và rút bảo lưu Điều 5 Nghị định thư về Buôn bán Trẻ
em, Mại dâm Trẻ em và Văn hóa phẩm Khiêu dâm Trẻ em của Công ước Quyền
Trẻ em; nghiên cứu gia nhập thêm một số công ước của Tổ chức Lao động
Quốc tế, Công ước Chống Tra tấn; phê chuẩn Công ước về Quyền của Người
Khuyết tật; Công ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị
định thư bổ sung về Trấn áp, Trừng trị tội Buôn bán người, đặc biệt là
Phụ nữ và Trẻ em.
b) Về hợp tác với các cơ chế nhân quyền:
Việt Nam cam kết thực hiện các nghĩa vụ của các công ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên; tham gia tích cực vào hoạt động của một số cơ
chế của Liên hợp quốc về quyền con người như Hội đồng Nhân quyền, Uỷ ban
3 Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng Kinh tế – Xã hội; tiếp tục đối
thoại về nhân quyền với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam sẽ xem
xét mời các Báo cáo viên đặc biệt về Quyền Lương thực, Chuyên gia Độc
lập về Nhân quyền và Đói nghèo, Báo cáo viên về Giáo dục, Chuyên gia Độc
lập về Tác động của Nợ nước ngoài đối với việc Hưởng thụ quyền, vào
thăm Việt Nam trong thời gian tới, để hiểu thêm về tình hình Việt Nam và
hỗ trợ Việt Nam đảm bảo tốt hơn quyền con người trong các lĩnh vực này.
c) Về các biện pháp thúc đẩy nhân quyền trên thực địa:
Việt Nam cam kết tiếp tục chương trình cải cách hành chính, hoàn thiện
hệ thống pháp luật và thể chế nhằm củng cố Nhà nước pháp quyền đảm bảo
tốt hơn quyền làm chủ của công dân; đảm bảo quyền tiếp cận, trợ giúp
pháp lý của công dân;
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, chú
trọng tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, quan tâm phát triển mạng
lưới an sinh xã hội, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo
và các nhóm người dễ bị tổn thương, cho các vùng sâu vùng xa;
- Phấn đấu đạt phổ cập trung học cơ sở;
- Chú trọng phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em;
đẩy mạnh công tác tuyên truyền chống phân biệt đối xử với nạn nhân của
tệ buôn bán phụ nữ, trẻ em, và tạo việc làm, thu nhập cho nạn nhân của
việc buôn bán phụ nữ, trẻ em, chú trọng giải quyết vấn đề lao động trẻ
em, đặc biệt là vấn để trẻ em đường phố, bạo hành trẻ em; hợp tác chặt
chẽ với các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực trong công tác
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, chống tội phạm xuyên quốc gia;
- Tiếp tục chương trình tiêm chủng vắc xin phòng
chống 7 bệnh cho trẻ em, chú trọng công tác tuyên truyền phòng chống
HIV/ AIDS; quan tâm công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, sức khoẻ
sinh sản, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng;
- Đẩy mạnh thực hiện chính sách bình đẳng giới, tuyên
truyền xóa bỏ phân biệt đối xử vì lý do giới tính; tạo cơ hội bình đẳng
về giáo dục, việc làm và thu nhập cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở
những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ người dân tộc thiểu số,
đẩy mạnh công tác phòng chống bạo lực gia đình, công tác tuyên truyền
nhằm thay đổi nhận thức trọng nam khinh nữ;
89. Việt Nam mong muốn các nước và các tổ chức quốc
tế tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ Việt Nam tăng cường năng lực
cho cán bộ và người dân, nâng cao nhận thức về vấn đề quyền con người./.
SOURCE: TẠP CHÍ TUYÊN GIÁO ONLINE
0 comments:
Post a Comment