NGUYỄN VĂN TRỌNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng
lời bất hủ của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Suốt hơn nửa thế kỷ qua
mọi người chúng ta đều chân thành xúc động khi đọc những lời hào hùng
này. Có nghĩa là bằng trái tim chúng ta đã tiếp thu những giá trị đó;
thế nhưng việc tiếp thu chúng bằng lý trí vẫn còn là việc phải bàn thảo
vì có thể có nhiều cách diễn giải những “lời bất hủ” ấy.
Những lời bất hủ trên đã được viết ra trong tinh thần
của thời đại Khai Minh ở phương Tây hướng tới sự khẳng định các giá trị
nhân bản nhằm giải phóng con người cá nhân khỏi các định kiến bất công
của xã hội đẳng cấp. Nhà soạn nhạc thiên tài W. A. Mozart năm 1778 đã
biến vở kịch Đám cưới Figaro của Beaumarchais thành vở nhạc kịch bất hủ
thể hiện tinh thần của thời đại. Ông đã để cho Figaro chất vấn nhà quý
tộc Almavia rằng ông đã làm gì để có được sự giàu có, đẳng cấp và địa
vị, và sau đó Figaro tự trả lời: “Ông chỉ có mất công sinh ra đời mà thôi, không có gì hơn“.
Vở nhạc kịch là một bản tụng ca trữ tình cho yêu sách của con người cá
nhân tự khẳng định mình, đòi quyền giành lấy chỗ đứng trong xã hội bằng
lao động cần cù và tài năng sáng tạo của bản thân.
Như vậy, “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”
hàm ý sự đòi hỏi bình đẳng về phẩm giá của mỗi người trong xã hội chống
lại mọi kỳ thị đều dựa trên đẳng cấp, là sự đòi hỏi bình đẳng về cơ hội
cho mọi người có thể giành lấy chỗ đứng của mình bằng lao động và tài
năng của bản thân. Sự đòi hỏi bình đẳng về phẩm giá dẫn tới yêu cầu xây
dựng một nhà nước dân chủ dựa trên khái niệm công dân với sự bình đẳng
trước pháp luật. Sự đòi hỏi bình đẳng về cơ hội dẫn tới lý tưởng về mục
tiêu của con người là “sự phát triển cao nhất và hài hòa nhất hướng tới
một toàn thể trọn vẹn và nhất quán” và để cho lý tưởng ấy thành hiện
thực thì càn phải có “sự tự do và tính đa dạng của các tình huống”
(Wilhlm von Humboldt, 1767-1835). Do đó, “quyền được sống và quyền mưu cầu hạnh phúc”
cho mỗi cá nhân hàm nghĩa một không gian tự do cần thiết cho sự phát
triển của cá nhân. Phạm vi của không gian ấy được quy định bởi ranh giới
cho sự can thiệp của quyền lực mà xã hội có thể vận dụng hợp pháp đối
với cá nhân thông quan phương tiện luật pháp hay dư luận xã hội.
Ranh giới ấy, theo cách hiểu của J. S. Mill
(1806-1873), chính là nội dung của quyền tự do cá nhân. Trong tác phẩm
On liberty (1895) được coi là một kiệt tác về chủ đề này ông đã đưa ra
nguyên lý sau đây: “Nguyên lý ấy là: mục đích duy nhất mà nhân loại,
cá nhân hay tập thể, nhắm tới trong việc can thiệp vào tự do hành động
của bất cứ số thành viên nào, phải là sự tự – bảo – hộ
(self-protection). Tức là quyền lực có thể vận dụng chính đáng đối với
bất cứ thành viên nào của một cộng đồng văn minh chống lại ý chí của anh
ta, chỉ khi nó nhằm mục tiêu ngăn chặn tổn hại cho những người khác.
Điều tốt lành cho chính anh ta, dù là vật thể hay tinh thần, không phải
là sự bảo đảm thích đáng. Anh ta không thể bị cưỡng ép một cách hợp pháp
phải làm hay phải nhẫn nhịn điều gì, với lý do cái đó sẽ làm cho anh ta
được hạnh phúc hơn, với lý do theo ý kiến của những người khác thì làm
thế là khôn ngoan, hay thậm chí đúng đắn. Đó là những lý do tốt để trách
móc, biện luận, thuyết phục hay kêu nài với anh ta, nhưng không phải để
cưỡng bức anh ta hay trừng trị cho anh ta khổ sở trong trường hợp anh
ta cứ làm khác. Để biện minh cho việc muốn ngăn cản anh ta thì hành vi
của anh ta phải là toan tính gây điều xấu cho ai đó. Chỉ có cái phần cư
xử của một ai đó liên can đến những người khá mới phải chịu sự ước thúc
của xã hội. Trong phần cư xử giới hạn liên can đến bản thân anh ta, sự
độc lập của anh ta như một quyền năng là tuyệt đối. Con người cá nhân là
chúa tể đối với chính bản thân anh ta, đối với thân thể và tâm hồn của
riêng anh ta“. J. S. Mill cho rằng quyền tự do ấy là cần thiết để
xã hội phát triển trong hạnh phúc của các thành viên. Mỗi con người là
một vũ trụ, không ai giống ai, cho nên cần có sự đa dạng của các tình
huống và điều kiện để mỗi người có thể phát triển hết khả năng của mình.
Ông viết: “Cùng một lối sống, đối với người này là phấn khởi lành
mạnh, phát huy được mọi khả năng hoạt động và đem lại niềm vui tột độ,
trong khi đối với người khác nó lại như gánh nặng phải khiêng vác đi,
làm ngưng trệ và đè nát mọi cuộc sống nội tâm. Đó là những khác biệt của
con người trong nguồn vui, trong sự cảm ứng với nỗi đau, và đó là tác
dụng của các điều kiện khác nhau về vật chất và tinh thần lên con người;
cho nên nếu không có sự đa dạng trong các kiểu cách sống của con người,
thì con người chẳng những không chia sẻ được hạnh phúc với nhau mà còn
không vươn lên được hết tầm vóc trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ mà bản chất
con người có khả năng đạt tới“.
Có mối tương quan mật thiệt giữa sự tôn trọng quyền
tự do cá nhân và hiện tượng “trăm hoa đua nở” của các nhân tài trong xã
hội, mặc dù trong lịch sử văn minh phương Tây chưa bao giờ quyền tự do
ấy được dành cho toàn thể dân chúng mà chỉ có một số tầng lớp nhất định
được thụ hưởng nó. Các cá nhân thiên tài là những người có cá tính nhiều
hơn người thường, vì vậy họ thường khó thích nghi với một vài khuôn mẫu
nghèo nàn mà tập quán xã hội muốn áp đặt cho họ. Nếu họ không đủ mạnh
mẽ và chịu khuất phục khiến cho tài năng của họ không phát triển được
thì họ cũng chẳng có ích cho xã hội được bao nhiêu. Nếu họ có tính cách
mạnh mẽ vượt lên được thì họ sẽ trở thành dấu ấn của xã hội. Trong tiểu
luận Bàn thêm về bi kịch Vũ Như Tô, ông Phạm Vĩnh Cư đã có nhận xét rất
xác đáng như sau: “… thiên tài ở cấp cao nhất cũng đồng đẳng với dân
tộc và có khi cao hơn: Homère là cha chứ không phải là con của văn minh
Hy Lạp, Shakespeare và Goethe là hiện thân tinh thần của nước Anh và
nước Đức, không có Tolstoi và Dostoievxki thì không có nước Nga, như
chính người Nga khẳng định…” (Vũ Như Tô tác phẩm và dư luận, NXB
Vanư học 2002). Quan niệm như thế về vai trò quan trọng của thiểu số
nhân tài đối với xã hội không hề hàm ý coi thường số đông những người
bình thường. Các thiết chế dân chủ đảm bảo rằng thiên tài dù xuất chúng
đến đâu cũng chỉ có quyền tự do đề xuất các ý kiến mình. Quyền quyết
định tốt hậu phải thuộc về số đông, dù cho quyết định của số đông không
phải lúc nào cũng đúng.
Trên thực tế các xã hội phương Tây đều tiếp thu
nguyên lý quyền tự do cá nhân trong tinh thần nói trên, song việc xác
định ranh giới cụ thể như thế nào cho quyền tự do thì lại không hoàn
toàn giống nhau. Sự khác biệt thể hiện tính đa dạng của các bản sắc dân
tộc trong việc lựa chọn các giá trị văn hóa thích hợp cho mỗi cộng đồng.
Quyền tự do cho cá nhân được tôn sùng trong các xã hội phương Tây quả
đã là động lực cho sự phát triển xã hội của họ trong giai đoạn lịch sử
cận đại. Song người ta cũng nhanh chóng nhận ra rằng đề cao quá đáng
quyền tự do sẽ dẫn tới phân hóa xã hội và gia tăng sự cách biệt giàu
nghèo. Kết quả đó lại là sự phủ định ngay chính giá trị bình đẳng và là
mối đe doạ cho sự phát triển bền vững của xã hội. Hoạt động kinh tế vốn
không thuộc phạm vi điều chỉnh của nguyên lý quyền tự do vì nó mang tính
xã hội rõ rệt, song các lý thuyết gia kinh tế thế kỷ 19 đã quá đề cao
tác dụng tốt của tự do cạnh tranh trong kinh tế. Sự thái quá đó cũng là
một nguyên nhân của cuộc khủng hoảng xảy ra vào thời kỳ giữa hai cuộc
thế chiến. Sau thế chiến thứ hai các xã hội phương Tây đã có nhiều điều
chỉnh nhằm hóa giải mâu thuẫn trên: giá trị Bác Ái được đề cao cùng với
việc thiết lập các chế độ phúc lợi xã hội để giúp đỡ các cá nhân sa cơ
lỡ bước. Người ta cũng dần dần hiểu ra rằng bộ ba giá trị Tự Do, Bình
Đẳng, Bác Ái vừa bổ sung cho nhau vừa đối chọi nhau và không thể hy
sinhmột giá trị này mà lại không làm tổn hại tới các giá trị kia (E.
Morin, 1993). Vai trò điều tiết của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế được
thừa nhận.
Trong di sản văn hóa Trung Hoa không phải không có
các tư tưởng gần gũi với các ý niệm bình đẳng và tự do. Trang Tử viết
thiên Tề vật luận khẳng định vạn vật tuyệt đối bình đanửg, không có quý
tiện,không có thị phi. Quách Tượng đời Ngụy Tấn cho rằng mỗi người có
bản tính riêng, vì vậy không nên tìm cách bắt chước các hiền nhân ngày
xưa mà mình phải là chính mình; nếu coi thường những khả năng của tiêng
mình để bắt chước những khả năng của người khác thì sẽ là phi lý. Tuy
nhiên, quan điểm chính thống của Nho giáo không chấp nhận các tư tưởng
này mà coi sự bất bình đẳng xã hội là phù hợp với tự nhiên. Không có ý
niệm con người cá nhân mà chỉ có con người phận vị. Nhân cách độc lập
của con người không được thừa nhận như một giá trị chung, do đó cũng
không thể có ý niệm về ranh giới cho sự can thiệp của xã hội vào cuộc
sống cá nhân. Trong quá khứ lịch sử nước ta, chính quyền trung ương của
nhà nước phong kiến thường không can thiệp quá sâu vào cuộc sống riêng
của người dân; công việc đó là của các vị chức sắc trong làng xã. Các
thiết chế làng xã kiểm soát chặt chẽ cuộc sống cá nhân của các thành
viên đã sản sinh ra mô hình nhân cách “con người tiểu kỷ, cảm chịu thân phận hèn mọn, bị động, nhờ ân huệ, vun quén, xà xẻo, khôn khéo lẩn tránh…” (Trần Đình Hượu, 1988). Các thiết chế ấy không cho phép một cá tính độc đáo nào tồn tại.
Không phải đến bây giờ người Việt Nam mới biết tới
các giá trị Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái. Song có lẽ chúngta tiếp thu các
giá trị ấy chủ yếu là ở bình diện cảm xúc nảy sinh từ các tác phẩm văn
chương của phương Tây thế kỷ 19 mà không thông qua các nhận thức trên cơ
sở tri thức triết học. Cho nên phần đông dân chúng không có được hiểu
biết rõ ràng về các khái niệm này. Trên thực tế khái niệm tự do được
hiểu với ý nghĩa tích cực chỉ trong hàm nghĩa lật đổ ách thống trị của
vua chúa phong kiến và bọn cai trị thực dân; còn trong đời sống thì từ
ngữ tự do thường mang hàm nghĩa xấu giống như vô kỷ luật, vô tổ chức.
Người ta có thể nhận mình là yêu tự do, nhưng lại không thừa nhận không
gian riêng tư của cá nhân và sẵn sàng nhân danh điều thiện để can thiệp
thô bạo vào những vấn đề thuộc tự do cá nhân. Khái niệm bình đẳng được
đồng nghĩa với chủ nghĩa bình quân trong kinh tế, ý niệm công dân rất mờ
nhạt dù cho nước ta đã trở thành dân chủ cộng hòa từ năm 1945. Do vậy
mà quan hệ giữa dân chúng và chính quyền đến tận bây giờ vẫn là xin cho
và ban phát; do vậy mà tài sản công và ngân sách nhà nước vẫn bị coi là
“của chùa” chứ không phải là mồ hôi nước mắt do các công dân đóng góp.
Sự thiếu vắng nhận thức về giá trị bình đẳng phẩm giá của mọi công dân
khiến cho thói quen “a dua người quyền quý” (X. T. T., báo Tiếng Dân, 1929) vẫn còn phổ biến trong xã hội, dù cho xã hội ngày nay đã không còn là xã hội đẳng cấp phong kiến như xưa nữa.
Hệ tư tưởng đẳng cấp của Nho giáo và các tập tục lạc
hậu sinh ra từ cơ cấu làng xã không mabg tính tuyệt đối mà luôn bị phản
kháng lại bởi tính nhân bản vốn là đặc điểm chung của home spanies.
Tính nhân bản thể hiện lương tri của con người bao hàm các yếu tố mang
tính thống nhất của nhân loại trong sự đa dạng văn hóa của các cộng
đồng. Sẽ là thừa nếu liệt kê ra đây những đức tính truyền thống của
người Việt đã được duy trì và phát triển trong tiến trình lịch sử của
mình, bởi vì người ta cũng có thể tìm thấy những đức tính ấy ở các cộng
đồng khác, bất chấp các dị biệt văn hóa. Tính thống nhất nhân học này
cho ta cơ sở để tin rằng chúng ta sẽ tiếp thu một cách đúng đắn các giá
trị bất hủ mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trong bản tuyên ngôn lịch
sử thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG
0 comments:
Post a Comment