PGS.TS. HOÀNG THẾ LIÊN
1. Sự cần thiết của việc xây dựng Luật lý lịch tư pháp
Trong hệ thống văn bản pháp lý hiện hành, đến nay mới có 4 văn bản đề cập đến công tác lý lịch tư pháp (LLTP), đó là: Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA của
Bộ Tư pháp và Bộ Công an ngày 08/02/1999 quy định việc cấp Phiếu LLTP;
Nghị định số 62/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/6/2003 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Quyết định số 94/2004/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 07/12/2004 quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp Phiếu LLTP; Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT/BTP-BNV của
Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ngày 05/5/2005 hướng dẫn về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp ủy ban nhân dân
quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương.
Trong số các văn bản quy định về công tác LLTP trên
thì chỉ có Thông tư liên tịch số 07T/1999/TTLT-BTP-BCA là văn bản pháp
lý quy định một cách thống nhất trình tự, thủ tục, trách nhiệm và cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan hữu quan (Tư pháp, Công an) trong quá trình
giải quyết việc cấp Phiếu LLTP theo yêu cầu của công dân (bao gồm cả
công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam).
Như vậy, trên cơ sở Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA, công
tác quản lý LLTP bắt đầu được triển khai thống nhất trên toàn quốc từ
năm 1999. Sau 9 năm thực hiện công tác cấp Phiếu LLTP cho công dân trên
phạm vi cả nước, nhìn chung, chúng ta đã triển khai khá tốt, đạt được
những kết quả đáng khích lệ. Đó là:
Thứ nhất, công tác cấp Phiếu LLTP đã đáp ứng
kịp thời yêu cầu của công dân Việt Nam và người nước ngoài có thời gian
cư trú tại Việt Nam. Thực tiễn giải quyết cấp Phiếu LLTP cho thấy, nhu
cầu sử dụng Phiếu LLTP xuất phát chủ động từ phía người dân, bởi đây là
loại giấy tờ duy nhất giúp họ chứng minh về nhân thân của mình theo yêu
cầu của các cơ quan hữu quan (chủ yếu là các cơ quan của nước ngoài) khi
họ tham gia vào những quan hệ liên quan đến quyền lợi của mình. Bởi
vậy, việc giải quyết cấp Phiếu LLTP có ý nghĩa là một hoạt động phục vụ
của Nhà nước nhằm giúp công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Thứ hai, các quy định về thủ tục cấp Phiếu
LLTP thể hiện tinh thần cải cách hành chính: đơn theo mẫu chuẩn; hồ sơ
yêu cầu cấp Phiếu LLTP chỉ cần nộp bản chụp (bản photocopy), không phải
nộp bản sao công chứng. Sau này, thực hiện Quyết định 181/2003/QĐ-TTg
ngày 4/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo của Bộ Tư pháp, ủy ban
nhân dân cấp tỉnh về việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa”, nhiều Sở Tư pháp đã sớm áp dụng cơ chế “một cửa” trong giải quyết
yêu cầu cấp Phiếu LLTP, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân.
Thứ ba, Phiếu LLTP góp phần phục vụ nhu cầu
quản lý hành chính nhà nước. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường
làm cho các quan hệ xã hội cũng ngày càng phong phú và đa dạng. Phiếu
LLTP lúc này càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với mỗi cá nhân.
Phiếu LLTP có giá trị pháp lý chứng minh tư cách đạo đức của một con
người cụ thể. Vì vậy, sau khi Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA
được ban hành, có rất nhiều văn bản của Nhà nước ta quy định công dân
phải có Phiếu LLTP để đưa vào hồ sơ khi tham gia một quan hệ pháp lý, cụ
thể: Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 hướng dẫn thi hành
Luật Quốc tịch Việt Nam; Nghị định số 21/2001/NĐ-CP ngày 28/05/2001 quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh Xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú của người
nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số
103/2003/NĐ-CP ngày 12/9/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hành
nghề y, dược tư nhân; Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/9/2003 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về
tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác LLTP đã bộc lộ nhiều
bất cập, vướng mắc mà pháp luật hiện hành không đủ cơ sở để giải quyết,
đòi hỏi phải có những quy định mới ở một văn bản pháp lý có giá trị cao
hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu và xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu LLTP và
cấp Phiếu LLTP, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về LLTP,
phù hợp với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền và xu thế cải cách
tư pháp hiện nay. Những bất cập, vướng mắc phát sinh thể hiện ở những
điểm sau:
Một là, các thông tin trong hệ thống tàng
thư của cơ quan Công an còn chưa phù hợp với mục đích, yêu cầu của việc
cấp Phiếu LLTP. Hiện nay, việc tra cứu phục vụ công tác cấp Phiếu LLTP
do ngành công an đảm nhiệm. Tuy nhiên, hệ thống tàng thư căn cước can
phạm do ngành công an quản lý là một trong những tàng thư nghiệp vụ phục
vụ chủ yếu cho công tác điều tra tội phạm, nên các thông tin trong hệ
thống tàng thư này còn nhiều điểm chưa phù hợp với mục đích, yêu cầu của
việc cấp Phiếu LLTP, vì thông tin mà cơ quan quản lý LLTP quan tâm là
việc xác định một người có tiền án hay không có tiền án. Điều này có
nghĩa là, thông tin về LLTP chỉ đề cập đến bản án đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án. Trong khi đó, không phải trường hợp nào hệ thống tàng
thư căn cước can phạm của ngành công an cũng cập nhật và ghi nhận toàn
bộ diễn biến việc xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật của đương sự
(kết quả của quá trình tố tụng). Nhiều trường hợp, hệ thống hồ sơ này
chỉ ghi nhận những thông tin ban đầu về hành vi vi phạm pháp luật của
đương sự (thông tin dừng lại ở giai đoạn điều tra). Do vậy, phiếu báo
kết quả xác minh chỉ dừng lại ở việc thông báo về vi phạm của đương sự
mà không khẳng định được là đương sự có bị kết án hay không, có tiền án
hay không có tiền án. Những trường hợp như vậy, Sở Tư pháp gặp rất nhiều
khó khăn trong việc lập và cấp Phiếu LLTP cho đương sự. Để đảm bảo việc
cấp Phiếu LLTP cho đương sự chính xác, trong trường hợp đã nêu ở trên,
Sở Tư pháp phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác như xác minh tại Toà án, đề
nghị đương sự cung cấp thông tin, xác minh tại nơi cư trú của đương sự.
Chính vì vậy, việc cấp Phiếu LLTP cho đương sự không đảm bảo thời gian
quy định, gây nhiều phiền hà, bức xúc cho người dân vì người dân phải
chờ đợi lâu, đi lại nhiều lần.
Hai là, các thông tin trong hệ thống tàng
thư của cơ quan công an còn hạn chế ở phạm vi địa phương. Đối với công
dân có thời gian cư trú ở ngoài tỉnh, người nước ngoài và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP thì cơ quan công an
cấp tỉnh, cụ thể là Phòng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (PC27) phải chuyển hồ
sơ ra Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Bộ Công an (C27) để tra cứu. Sau
khi có kết quả tra cứu của Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, Phòng Hồ sơ
nghiệp vụ cảnh sát thông báo kết quả xác minh cho Sở Tư pháp. Kết quả
xác minh mà Sở Tư pháp nhận được từ Phòng Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát
thường là quá thời gian theo quy định, dẫn đến việc cấp Phiếu LLTP cho
công dân bị kéo dài. Việc này ảnh hưởng đến việc bổ sung hồ sơ cá nhân
tại nước đương sự đang cư trú, cũng như việc xin cấp giấy phép lao động
của người nước ngoài xin làm việc tại Việt Nam, công dân Việt Nam bổ
sung hồ sơ xuất cảnh ra nước ngoài. Sự hạn chế trong việc xác minh kết
quả tra cứu tại công an cấp tỉnh cũng là một trong những nguyên nhân
khiến việc cấp Phiếu LLTP cho công dân bị gặp nhiều khó khăn, trong một
số trường hợp công dân bị mất cơ hội vì không sớm được cấp Phiếu LLTP.
Ba là, thủ tục thực hiện xoá án tích theo
quy định của pháp luật hiện hành còn rất phức tạp. Xoá án tích là một
chính sách thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Nhà nước ta, tạo điều kiện
cho người phạm tội tái hoà nhập cộng đồng. Theo quy định của Bộ luật
Hình sự, có hai trường hợp xoá án tích là đương nhiên được xoá án tích
và xoá án tích theo quyết định của Toà án. Tuy nhiên, việc thực hiện
chính sách này vẫn còn những điểm bất cập, chưa thực sự thuận lợi cho
người dân. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa chủ động làm thủ tục
xoá án tích cho người phạm tội. Đối với những trường hợp đương nhiên
được xoá án tích thì sau một thời gian nhất định kể từ khi chấp hành
xong bản án mà người bị kết án không phạm tội mới thì án tích của họ
đương nhiên được xoá (kể cả trường hợp đương sự không yêu cầu). Tuy
nhiên, một bất cập hiện nay là theo quy định của pháp luật hiện hành,
Toà án không chủ động cấp giấy chứng nhận cho tất cả những người được
đương nhiên xoá án mà chỉ cấp giấy chứng nhận khi những người được xoá
án yêu cầu. Hiện nay, Giấy chứng nhận xoá án hoặc sau khi Toà án ra
quyết định xoá án chưa tạo điều kiện thuận lợi để người phạm tội tái hoà
nhập cộng đồng. Người phạm tội chỉ có thể dễ dàng tham gia các quan hệ
xã hội: xin việc làm, xuất khẩu lao động khi có Phiếu LLTP xác nhận
không có tiền án. Do đó, cần xây dựng một cơ quan quản lý LLTP thống
nhất để có thể theo dõi và thực hiện việc xoá án tích một cách thuận
lợi, dễ dàng, khắc phục được những hạn chế trong việc xin cấp Giấy chứng
nhận xoá án tích như hiện nay.
Bốn là, hoạt động quản lý LLTP hiện nay
chưa đảm bảo được mục đích cơ bản là hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và
quản lý nhà nước. Tham khảo kinh nghiệm một số nước có hệ thống LLTP lâu
đời như Pháp, Đức, Bỉ… thì hệ thống LLTP được hình thành ở những nước
này trước hết là một công cụ quản lý tư pháp hình sự, được sử dụng trong
điều tra, xét xử để chứng minh sự phạm tội và để hỗ trợ hoạt động hợp
tác quốc tế về tư pháp, tương trợ tư pháp. Các thông tin được cung cấp
từ hệ thống LLTP được coi là căn cứ, làm cơ sở cho các quyết định của
các cơ quan công tố hình sự và đồng thời phục vụ cho việc thực hiện các
dự án nghiên cứu khoa học, thống kê tội phạm. Như vậy, xét về bản chất,
LLTP được coi là nguồn cung cấp những cứ liệu chính thức về quá khứ nhân
thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố, xét xử giải quyết
vụ án. Với ý nghĩa như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cũng là một trong
những đối tượng được cung cấp thông tin từ cơ sở dữ liệu LLTP. Khác với
các nước, ở nước ta, các thông tin về quá khứ hình sự của một người mà
các cơ quan tố tụng cần có để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố,
xét xử vụ án không phải được lấy từ nguồn LLTP, mà được cung cấp từ
nguồn tàng thư căn cước của cơ quan công an. Đây chính là điều bất cập
cần phải giải quyết vì hệ thống tàng thư căn cước của ngành công an như
đã nói ở trên được xây dựng nhằm phục vụ cho nghiệp vụ điều tra, nên
phần lớn là những thông tin cần thiết cho việc phát hiện và truy tố kẻ
phạm tội, trong khi đó, cái mà hoạt động xét xử cần là xem xét nhân thân
của một người ở góc độ người đó đã từng bị kết án hay chưa, tội danh,
hình phạt của họ như thế nào để Toà án có cơ sở trong việc quyết định
hình phạt. Nghĩa là, hoạt động xét xử cần sử dụng những thông tin trong
cơ sở dữ liệu LLTP. Tuy nhiên, hiện nay cơ quan tư pháp mới chỉ thực
hiện việc cấp Phiếu LLTP khi công dân có yêu cầu, mà chưa thực hiện được
việc cung cấp thông tin về LLTP của cá nhân cho các cơ quan tố tụng và
các cơ quan nhà nước khác.
Năm là, hoạt động quản lý LLTP hiện nay chưa
đáp ứng được nhu cầu xin cấp Phiếu LLTP ngày càng tăng của người dân.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm cho các quan hệ xã hội ngày
càng phong phú và đa dạng. Phiếu LLTP lúc này càng trở nên quan trọng
và cần thiết đối với mỗi cá nhân. Phiếu LLTP chính là cơ sở pháp lý quan
trọng, chứng minh tư cách đạo đức của một con người cụ thể. Vì vậy, nhu
cầu xin cấp Phiếu LLTP của người dân ngày càng tăng. Công tác cấp
Phiếu LLTP cho công dân được thực hiện tại các Sở Tư pháp ngày càng trở
nên quan trọng. Sở Tư pháp chưa đáp ứng được nhu cầu cấp Phiếu LLTP ngày
càng tăng của người dân. Hạn chế này là do Sở Tư pháp còn bị động từ
phía ngành công an. Sở Tư pháp chủ yếu lưu trữ các dữ liệu thụ lý đã
được Sở Tư pháp giải quyết, còn thông tin cần thiết cho quản lý hộ tịch
của người có án thì Sở Tư pháp không lưu trữ được. Do vậy, nhiều trường
hợp trước đây công dân đã được cấp Phiếu LLTP nay đã hết hạn (theo quy
định của pháp luật hiện hành, Phiếu LLTP không quy định giá trị sử dụng
trong thời hạn bao lâu. Việc đương sự phải làm hồ sơ xin cấp Phiếu
LLTP từ đầu là do yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động). Trong trường hợp
này, thời gian giải quyết hồ sơ của cơ quan công an cũng không rút ngắn
(mặc dù giai đoạn phải tra cứu ngắn hơn). Điều này cũng gây nên tình
trạng lãng phí thời gian, tiền của, công sức của người dân và cán bộ làm
công tác LLTP. Những khó khăn, bất cập nêu trên chỉ được giải quyết khi
xây dựng được cơ quan quản lý độc lập để quản lý về dữ liệu LLTP. Cơ
quan này sẽ thực hiện việc lưu trữ, xử lý và cập nhật đầy đủ những thông
tin về LLTP.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy việc ban hành Luật LLTP là rất cần thiết tại thời điểm hiện nay.
2. Phạm vi quản lý LLTP
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng quyết định
toàn bộ nội dung, quy mô, cơ chế quản lý LLTP của mỗi quốc gia. Xét về
mặt lịch sử thì phạm vi và nội dung của LLTP lúc đầu chỉ là những vấn đề
mang tính chất thuần túy hình sự (tức là những án hình). Về sau này, do
sự phát triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên phạm vi
quản lý LLTP cũng được mở rộng ra các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia
đình, thương mại, hành chính.
Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc vào ý
chí của mỗi quốc gia và xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, xã hội và
cách làm của mỗi nước. Tuy nhiên, dù mở rộng hay thu hẹp phạm vi này thì
nội dung chủ yếu của LLTP vẫn là những vấn đề về hình sự (chẳng hạn, ở
Cộng hoà Pháp hiện nay có 90% thông tin được đưa vào LLTP là thuộc hình
sự[1]). Tuy vậy, ngay cả trong phạm vi hình sự, vấn đề lại được đặt ra ở
hai cấp độ tiền án và tiền sự. ở một số nước theo hình thức sổ bộ của
Toà án thì chỉ ghi nhớ các tiền án của đương sự. Cộng hoà Pháp là nước
có hệ thống quản lý LLTP độc lập và hoàn chỉnh nên có ghi nhớ cả những
tiền sự. Tuy nhiên, khái niệm tiền sự trong nhiều trường hợp rất khó
định lượng. Hành vi vi phạm nào chưa đến mức bị kết án có thể coi là
tiền sự? Vấn đề này phải được quy định trong văn bản pháp luật. Thông
thường, đó là những hành vi tuy chưa đến mức bị kết án nhưng bản thân nó
có ý nghĩa để đánh giá về quá khứ nhân thân của đương sự. Ví dụ: một
người đã có hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự hoặc
miễn hình phạt thì hành vi đó có thể được ghi nhớ vào LLTP. Việc mở rộng
phạm vi của LLTP ra các lĩnh vực ngoài hình sự thường là những vấn đề
liên quan đến việc cấm một số quyền nào đó đối với đương sự. Chẳng hạn,
việc cấm có thời hạn hoặc vô thời hạn quyền kinh doanh của một người nào
đó, hoặc việc tước quyền bầu cử hoặc ứng cử vào cơ quan công quyền,
việc tước một số quyền làm cha, mẹ, lệnh trục xuất người nước ngoài. Tất
cả những chế tài này cần phải được đưa vào “bộ nhớ” của LLTP để giám
sát việc thực hiện. Thực ra việc phân loại thông tin theo lĩnh vực hình
sự, dân sự, hành chính, thương mại cũng chỉ mang tính chất tương đối. Nó
không phải là một nguyên tắc.
Để xác định rõ nội dung nào cần được ghi nhớ trong
LLTP, thông thường pháp luật của một số nước ngay khi quy định các chế
tài (ngoài hình sự), thì đồng thời cũng chỉ rõ việc đó có được ghi vào
LLTP hay không. Còn trong các chế định của luật hình sự, tố tụng hình sự
đều quy định những tiền án, tiền sự nào được ghi vào LLTP. Hơn nữa, các
Toà án khi đưa ra các bản án, quyết định về một vụ việc cụ thể cũng nêu
rõ trong bản án hoặc quyết định đó việc được miễn hay phải ghi vào
LLTP.
Ngoài cách phân loại thông tin theo lĩnh vực nói
trên, người ta còn phân loại theo thông tin ban đầu và thông tin bổ
sung. Thông tin ban đầu là những bản án hay quyết định ban đầu về một vụ
việc cụ thể. Chẳng hạn, một người bị Toà án phạt tù về một tội nào đó
thì bản án này sẽ được gửi cho cơ quan LLTP để ghi nhớ bản án đó. Nếu
trong bản án này có cả hình phạt bổ sung như phạt tiền hoặc quản chế sau
khi mãn hạn tù thì những thông tin này cũng là loại thông tin ban đầu.
Thông tin bổ sung là loại thông tin phản ánh diễn biến về sau của vụ
việc. Ví dụ, trong quá trình thi hành án phạt tù, đương sự lại được
hưởng ân xá thì quyết định về ân xá đối với đương sự cũng được gửi cho
cơ quan LLTP vì vấn đề này có liên quan đến việc xoá án tích trong LLTP
của đương sự. Việc tiếp nhận các thông tin bổ sung vào LLTP có ý nghĩa
rất quan trọng, nhưng thông thường nó hay bị lãng quên hoặc được cập
nhật không đầy đủ.
Để xây dựng một văn bản luật theo hướng điều chỉnh
một cách toàn diện các vấn đề cơ bản đã nêu ở trên, vấn đề quan trọng
hàng đầu là phải xác định được phạm vi cần quản lý của LLTP vì khi xác
định được phạm vi cần quản lý của LLTP sẽ xác định được nội dung, cơ chế
quản lý LLTP. Nghiên cứu pháp luật một số nước quy định về LLTP cho
thấy, phạm vi quản lý LLTP có sự khác nhau. Ví dụ: Theo mô hình của
Cộng hoà Pháp, phạm vi quản lý LLTP bao gồm các án tích hình sự, các
nghĩa vụ dân sự, vi phạm hành chính. Theo mô hình của Cộng hoà Liên bang
Đức, phạm vi quản lý LLTP tương đối rộng, bao gồm các bản án hình sự,
các quyết định nhất định của cơ quan hành chính và Toà án (như cấm hành
nghề, hoạt động thương mại hoặc rút giấy phép tương ứng, các thông báo
liên quan đến việc không có năng lực trách nhiệm hình sự, các quyết định
vi phạm trong công nghiệp và thương mại, các thông tin liên quan đến
tất cả các vụ việc hình sự đang điều tra của tất cả các cơ quan công tố
hình sự tại Cộng hoà Liên bang Đức). ở Bỉ, phạm vi quản lý LLTP bao gồm
tất cả các bản án hình sự chung thẩm và một số các quyết định mang tính
hành chính thứ cấp (như là quyết định cấm hành nghề hoặc cấm kinh doanh)
do Toà án ban hành. Trong khi đó, phạm vi quản lý LLTP của Nhật Bản chỉ
giới hạn trong các án hình sự và chỉ phục vụ hạn chế cho hoạt động tố
tụng. Như vậy, phạm vi quản lý LLTP ở các nước rất khác nhau, có nước mở
rộng phạm vi quản lý, có nước thu hẹp phạm vi quản lý, nhưng phần lớn
phạm vi quản lý chủ yếu của LLTP vẫn là những vấn đề về hình sự.
Khác với nhiều nước trên thế giới, ở nước ta phạm vi
quản lý LLTP theo quy định của pháp luật hiện hành chỉ bao gồm nội dung
xác nhận về nhân thân tư pháp của một cá nhân trong phạm vi tiền án,
không mở rộng tới việc xác nhận về mặt tiền sự hoặc các vi phạm pháp
luật khác (Điểm 1, mục 1, Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA
ngày 08/02/1999 quy định việc cấp Phiếu LLTP).
Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật LLTP, khi xác định phạm vi quản lý LLTP có rất nhiều ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng: phạm vi quản lý LLTP ở nước
ta nên giữ nguyên như hiện nay, tức là chỉ quản lý trong phạm vi các án
tích hình sự. Điều này có nghĩa là, phạm vi quản lý LLTP chỉ bao gồm
nội dung xác nhận về nhân thân tư pháp của một cá nhân trong phạm vi
tiền án mà không mở rộng tới việc xác nhận về mặt tiền sự hoặc các vi
phạm pháp luật khác của cá nhân.
Ý kiến thứ hai cho rằng:
nên mở rộng phạm vi quản lý LLTP, trong đó cần thiết ghi nhận những nội
dung liên quan đến xử lý vi phạm hành chính như biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục…
vào hệ thống hồ sơ LLTP vì các biện pháp này đều được xem xét, quyết
định áp dụng trong mối tương quan đến yếu tố nhân thân và quá trình vi
phạm của đối tượng, có hành vi vi phạm nhiều lần, có tính chất thường
xuyên, cần thiết phải áp dụng biện pháp xử lý mạnh hơn. Để áp dụng các
biện pháp xử lý mạnh hơn đúng với tính chất, mức độ vi phạm của hành vi
vi phạm thì những biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm tương ứng cần
phải được thống kê, ghi nhận trong LLTP
Ý kiến thứ ba cho rằng:
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tình tiết định tội đã bị xử phạt hành
chính mà còn vi phạm ở khá nhiều tội danh (64 tội danh). Nói cách khác,
một hành vi vi phạm hành chính sẽ bị chuyển hoá thành tội phạm trong
trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm hành chính đó đã bị xử lý
theo quy định của pháp luật hành chính mà còn vi phạm (phổ biến ở các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế). Do đó, LLTP cũng cần phải ghi
nhận các thông tin này.
Ý kiến thứ tư cho rằng:
bên cạnh nội dung về hình sự, hành chính nói trên, các quyết định của
Toà án tuyên một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc các quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước
như quyết định kỷ luật công chức, quyết định của các đơn vị sự nghiệp
như quyết định kỷ luật viên chức hoặc quyết định trục xuất người nước
ngoài cũng cần được ghi nhớ trong LLTP.
Để xác định những nội dung nào cần ghi nhận trong
LLTP, thông thường người ta xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử mỗi nước, căn
cứ vào các điều kiện kinh tế, xã hội để định ra những nội dung cần quản
lý cho phù hợp với mục đích, yêu cầu mà lĩnh vực hoạt động đó hướng
tới. Có thể nói, mục đích cơ bản và chủ yếu của LLTP là nhằm hỗ trợ cho
hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý nhà nước. Trong hoạt động tố
tụng, đặc biệt là hoạt động xét xử, LLTP xét về bản chất chính là nguồn
cung cấp những cứ liệu chính thức về quá khứ nhân thân của bị can, bị
cáo để cơ quan điều tra, truy tố, xét xử giải quyết vụ án. Trong hoạt
động quản lý Nhà nước, LLTP giúp cho các cơ quan tuyển dụng lao động,
các nhà quản lý nắm rõ về tiểu sử tư pháp của người cần tuyển dụng
Ở nước ta, nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật hiện
hành liên quan đến LLTP, chúng ta thấy rằng, phạm vi các vấn đề có liên
quan đến LLTP tương đối rộng, bao gồm các lĩnh vực hình sự, hành chính,
dân sự, kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, trong điều kiện khả năng,
kinh nghiệm của nước ta hiện nay, phạm vi quản lý LLTP nên giới hạn
trong phạm vi các án hình sự. Quan điểm này xuất phát từ những lý do cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, công tác cập nhật, thống kê về vi
phạm hành chính, quyết định về hạn chế năng lực hành vi dân sự, kỷ luật
công chức, viên chức còn nhiều bất cập, chưa có những quy định pháp luật
hướng dẫn về cơ quan, tổ chức thực hiện hoạt động này, trong khi đó
thẩm quyền mỗi cơ quan trong mỗi lĩnh vực được pháp luật quy định khác
nhau phù hợp với đặc thù của ngành mình. Do vậy, việc cập nhật, thống kê
các dữ liệu về áp dụng chế tài xử lý phần nhiều mang tính tuỳ nghi, mỗi
cơ quan tiến hành theo một cách khác nhau nên rất khó khăn trong việc
thu thập đầy đủ các thông tin liên quan đến những lĩnh vực này.
Thứ hai, các bản án và quyết định của Toà án
là nguồn cung cấp thông tin cho cơ sở dữ liệu tư pháp từ trước đến nay
vẫn được lưu trữ, quản lý tại Toà án. Vấn đề quản lý hồ sơ và theo dõi
để cung cấp xác nhận tiền án do Toà án đảm nhiệm, tuy nhiên do chưa có
văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn cụ thể về việc tra cứu tại Toà án
nên việc tra cứu, xác minh về tình trạng tiền án của đương sự nhiều khi
còn chưa khoa học, thiếu kịp thời. Do vậy, khi xây dựng được cơ chế phối
hợp giữa Toà án và cơ quan LLTP trong việc cung cấp thông tin về bản án
hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, thì việc quản lý, lưu trữ
hồ sơ về LLTP sẽ đảm bảo được tính ổn định lâu dài, thuận tiện trong tra
cứu.
Thứ ba, các cơ quan, tổ chức trong việc
tuyển dụng, bổ nhiệm, cho phép thành lập doanh nghiệp (như công ty chứng
khoán, hành nghề y dược tư nhân…) phần lớn đều có yêu cầu kèm theo hồ
sơ, đương sự phải có Phiếu LLTP để chứng minh về nhân thân tư pháp của
bản thân. Tuy nhiên, vấn đề mà các nhà tuyển dụng, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quan tâm vẫn là muốn kiểm tra xem những người đang tuyển
dụng, đang xin cấp phép thành lập doanh nghiệp đã bị kết án về hình sự
chưa, nhằm ngăn ngừa tình trạng những người đang có tiền án gây bất lợi
cho đơn vị tuyển dụng như: lợi dụng việc xuất cảnh ra nước ngoài bằng
con đường xuất khẩu lao động để bỏ trốn hoặc tiếp tục vi phạm pháp luật ở
nước sở tại, gây khó khăn cho công tác quản lý lao động
Tóm lại, khi xác định được phạm vi
quản lý LLTP, việc điều chỉnh một cách toàn diện các vấn đề cơ bản về
quản lý LLTP sẽ thuận lợi hơn như khoanh vùng được hệ thống hồ sơ cần
quản lý, xác định các loại mẫu phiếu LLTP và nội dung của từng loại mẫu
phiếu cần xây dựng. Viêc xác định rõ phạm vi quản lý LLTP cũng góp phần
tạo tiền đề để xây dựng hệ thống quản lý phù hợp, đáp ứng đúng yêu cầu
chuyên môn của lĩnh vực quản lý này. /.
Chú thích:
[1] Lý lịch tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia, HN, năm 1997, tr 20.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP
0 comments:
Post a Comment