THANH XUÂN
Cải chính hộ tịch và xác định lại hộ tịch
của một cá nhân là một trong những việc quan trọng trong cuộc sống của
một con người. Sự kiện cải chính, xác định lại hộ tịch của một người có
thể ảnh hưởng đến quá trình hoạt động dân sự của họ trong sự điều chỉnh
bằng các quy định pháp lý mà họ phải tuân thủ khi là công dân trong một
xã hội.
Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Điều 36 khẳng định cá
nhân có quyền được xác định lại giới tính và việc xác định lại giới tính
của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị
khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can
thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính. Đồng thời việc xác định
lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật. Như vậy, nội
dung điều luật đã rõ việc xác định giới tính của một người chỉ thực hiện
trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh nghĩa là
mang yếu tố tự nhiên không có sự tác động của con người. Hoặc trong
trường hợp giới tính của người đó chưa định hình chính xác mà cần có sự
can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính, như vậy một cá nhân
mới sinh ra mà giới tính của người đó chưa xác định rõ ràng là nam hay
nữ cần có sự can thiệp của y học để xác định rõ giới tính của người đó.
Ra đời sau Bộ luật Dân sự Nghị định 158/2005/NĐ-CP
ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch thay thế
Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch cũng quy định
việc xác định lại giới tính của một cá nhân khi cá nhân đó có yêu cầu.
Khoản 4 Điều 36 Nghị định đã dẫn cũng có những quy định tương tự như Bộ
luật Dân sự “xác định lại giới tính của một người trong trường hợp giới
tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác
mà cần có sự can thiêp của y học nhằm xác định rõ về giới tính”. Những
quy định này hầu như không khác và chi tiết gì với Bộ luật Dân sự năm
2005, Nghị định nêu rõ thủ tục quan trọng nhất thiết phải có để đăng ký
việc xác định lại giới tính là văn bản kết luận của tổ chức y tế đã tiến
hành can thiệp để xác định lại giới tính là căn cứ cho việc xác định
lại giới tính ngoài những thu tục phải có nêu ở Điều 38 Nghị định đã
dẫn.
Thực tế, trong những quy định như thế nhưng vẫn có
những trường hợp đặc thù diễn ra mà pháp luật hiện hành chưa có biện
pháp cũng như những chế tài chính xác điều chỉnh. Một đứa bé sinh ra
nhưng trong thời điểm sinh ra đó vẫn chưa xác định được giới tính của
đứa trẻ, khi trải qua một thời gian sau thì giới tính đứa trẻ đó mới
được hình thành rõ ràng khi ấy y học lại tiến hành can thiệp xác định
giới tính cho đứa trẻ bằng văn bản kết luận của tổ chức y tế. Chúng ta
có được việc xác định lại giới tính theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005 và theo tinh thần của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Nhưng trong những trường hợp đặc thù mang yếu tố chủ
quan sắp xếp có mục đích của con người thì sự việc trở nên khác đi và có
nhiều ý kiến khác nhau trong những trường hợp này. Một đứa trẻ khi sinh
ra với một giới tính hoàn toàn bình thường là một người nam nhưng sau
một khoảng thời gian dài không tiến hành đăng ký khai sinh cho đứa bé,
khi đến tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự do mục đích của gia đình lại
tiến hành đăng ký khai sinh cho đứa trẻ mang giới tính nữ nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sau đó gia đình lại đến cơ quan
có thẩm quyền yêu cầu việc chỉnh sửa giấy khai sinh theo đúng giới tính
của con mình. Trong trường hợp này có hai ý kiến khác nhau cũng như hai
phương án áp dụng luật khác nhau để giải quyết trường hợp đặc thù trên:
Ý kiến thứ nhất cho rằng đây chỉ là trường hợp cải
chính hộ tịch (cải chính phần ghi về giới tính trong giấy khai sinh)
theo quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ
về đăng ký và quản lý hộ tịch. Bởi vì, theo Khoản 2 Điều 36 Nghị định
158 đã dẫn định nghĩa “Cải chính những nội dung đã được đăng ký trong sổ
đăng ký khai sinh và bản chính giấy khai sinh, nhưng có sai sót trong
khi đăng ký”. Trên cơ sở đó những nội dung đã đăng ký khai sinh là giới
tính nữ nhưng do cán bộ tư pháp – hộ tịch không kiểm tra dẫn đến sai sót
trong quá trình đăng ký khi sinh cho một cá nhân (việc đăng ký khai
sinh trước đây chưa được chặt chẽ trong những trường hợp không xuất
trình giấy chứng sinh chỉ làm tờ khai đăng ký đã đăng ký được giấy khai
sinh). Như vậy, trường hợp nêu trên theo ý kiến thứ nhất là trường hợp
cải chính hộ tịch – cải chính phần ghi về giới tính trong bản chính giấy
khai sinh và sổ đăng ký khai sinh. Và thực tế cho thấy ở xã T.P huyện
L.V một gia đình có đến 04 người con là nam nhưng lại đăng ký khai sinh
mang giới tính nữ nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
Ý kiến thứ hai cho rằng đây là trường hợp xác định lại giới tính theo
quy định của Bộ luật Dân sự và Nghị định 158/2005/NĐ-CP vì phải có cơ
sở pháp lý cho rằng cá nhân đó mang một giới tính rõ ràng là nam hay nữ
thông qua việc xuất trình văn bản kết luận can thiệp của tổ chức y tế
(hiện nay văn bản này có lẽ chỉ là giấy khám sức khỏe của các tổ chức y
tế). Vấn đề đặt ra là trong trường hợp này giới tính của đứa trẻ sinh ra
không hề có khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác đây chỉ
là việc đăng ký khai sinh có chủ ý của người đăng ký khai sinh nhằm trốn
tránh thực hiện một nghĩa vụ.
Theo người viết trong hai ý kiến trên, người viết
thống nhất với ý kiến thứ nhất cho rằng đây là trường hợp cải chính về
phần ghi về giới tính trong bản chính giấy khai sinh và sổ đăng ký bởi
vì việc xác định lại giới tính chỉ được thực hiện khi giới tính của
người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có
sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính. Cần lưu ý là sau
khi nhận các thủ tục cũng như yêu cầu của người dân liên quan đến các
vấn đề này thì cán bộ tư pháp – hộ tịch cần phải xem xét xác minh kỹ các
hồ sơ chứng minh và các giấy tờ liên quan để từ đó có phương án, hướng
áp dụng luật một cách chính xác./.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment