TS. HOÀNG CÔNG
Cho đến nay, chúng ta
phải thừa nhận rằng khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học "kinh
điển" nào về quyền con người. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn như Lôccơ,
Rútxô… và sau này Mác, Engen, Lênin cũng không đưa ra một định nghĩa nào
về khái niệm này giống như cách làm thông thường đối với các khái niệm
triết học khác.
Chúng ta thường chỉ thấy các định nghĩa kiểu như
"quyền cái người là quyền…". Chẳng hạn, Lốccơ nói : "quyền tự nhiên của
con người là quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu. Hiến pháp 1791 của
Pháp viết : quyền con người – đó là " quyền tự do, sở hữu, được an toàn
và chống lại áp bức". Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ 1776 viết: quyền con
người – đó là "các quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Cho đến nay, từ Đông sang Tây đã có rất nhiều định
nghĩa về quyền con người. Có những định nghĩa liệt kê quyền con người
bao gồm những quyền a, b, c… nào đó. Có những định nghĩa rất khái quát,
chẳng hạn, học giả Trung Quốc Đồng Vân Hồ quan niệm: "có thể nói gọn
lại, nhân quyền là quyền tồn tại, phát triển một cách tự do, bình đắng" (1).
Nhìn lại quá khứ và hiện tại, các quan điểm về quyền con người thưởng đi theo những khuynh hướng sau:
* Khuynh hướng “quyền tự nhiên”:
Những tư tưởng về quyền "tự nhiên", "trời phú” cho
con người ngay từ khi con người xuất hiện đã có từ thời cổ đại. Ở Trung
Quốc, Mặc Tử (479-381 trước Công nguyên) đã cho rằng quyền bình đẳng tự
nhiên của con người đó là "ý trời". Theo đó, mỗi người đều có quyền tham
gia công việc nhả nước tuỳ theo đạo đức và tài năng của họ, chứ không
phải do dòng dõi quyết định. Cũng như vậy, mỗi người đều có các quyền
giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Ở Hy lạp cổ đại, các nhà
triết học nguỵ biện như Ăngtiphôn, Ankiđan cũng có những tư tưởng tương
tự. Ở châu Âu, kể từ thời Phục hưng trở đi, tư tưởng về quyền tự nhiên
ngày càng trở nên phổ biến. Những đại biểu xuất sắc là Lôccơ (Anh),
Rútxô (Pháp), Xpinôda (Hà lan), I. Can tơ, Pruphenđóocphơ (Đức),
Jepphécxơn (Mỹ)… Những điều viết về quyền con người trong Hiến pháp 1791
của Pháp, Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mỹ đều theo quan điểm quyền tự
nhiên. Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó
là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công,
bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến sau này). Vì
thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa
nhất định.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con
người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển
tự nhiên. Nhưng nhược điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã hội
của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự
phát triển trong những đòi hỏi về quyền con người.
* Khuynh hướng ‘thực định”:
Trái với khuynh hướng quyền tự nhiên, – khuynh hướng
không đề ý đến mặt pháp luật và nhà nước của quyền con người, khuynh
hướng thực định lại coi quyền con người là tất cả những gì mà nhà nước
thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ những gì pháp luật cho
phép tự do làm hay không làm thì mới là quyền con người, và chỉ được coi
là quyền con người khi một hành vi hay một yêu cầu của cá nhân là hợp
pháp.
Khuynh hướng thực định có điểm hợp lý là đã gắn quyền
con người với pháp luật, với ý chí mà nhà nước (mà điều này thì không
thể bỏ qua được, vì quyển con người tất nhiên phải tồn tại dưới hình
thức pháp luật).
Nhưng, nó cũng có nhược điểm ở chỗ, chỉ coi ý chí nhà
nước là nguồn gốc của quyền con người , coi trọng tính hợp pháp của
quyền, song lại không để ý đến tính hợp lý của nó, – cái mà nhờ đó, ngay
cả những đòi hỏi, những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống (nhưng chưa được
pháp luật ghi nhận) cũng phải được coi là quyền con người. Do đó, không
thể coi quyền con người chỉ là cái được phép làm, được hưởng theo pháp
luật, mà còn cả cái đáng được làm, đáng được hưởng (những cái chưa được
pháp luật khẳng định, nhưng sẽ phải khẳng định).
* Khuynh hướng “kinh tế”:
coi quyền con người là những quyền nảy sinh từ nhu
cầu của sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, khuynh hướng này coi nguồn
gốc của quyền con người là kinh tế. Không phải “trời phú” tự nhiên, cũng
không phải do nhà nước ban phát, mà chính đời sống kinh tế của con
người trao cho con người các quyền. Tác giả người Trung Quốc- Từ Sùng Ôn
viết: "nhân quyền, suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện kinh tế-xã hội,
phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định" (2).
Khuynh hướng kinh tế có điểm hợp lý ở chỗ, nó cho
thấy nguồn gốc của quyền con người là bản thân đời sống xã hội của con
người. Nó tước bỏ cái vỏ "thần thánh", "tự nhiên", không giải thích được
của quyền con người, trả quyền con người về với đời sống thực tại của
con người. Theo khuynh hướng này, có thể đi đến quan điểm duy vật lịch
sử về vấn đề quyền con người. Nó cũng cho thấy tính giai cấp trong những
đòi hỏi về quyền con người.
Song, sẽ là không đầy đủ nếu coi quyền con người chỉ
có nguồn gốc kinh tế. Quyền con người còn bao hàm những yêu cầu về danh
dự, nhân phẩm, về đời sống tinh thần, tình cảm của con người…, nghĩa là
những điều nằm ngoài phạm trù kinh tế.
* Khuynh hướng “quan niệm":
cho rằng quyền con người là tất cả những gì mà con
người cho là cần thiết và có giá trị đối với cuộc sống con người, như
thế quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và những giá trị tinh thần đều có thể
trở thành quyền con người nếu như người ta quan niệm như vậy.
Đề cập tới mặt chủ quan, khía cạnh giá trị của quyền
con người là điều cần thiết. Bởi, khác với các quan hệ xã hội hiện thực
luôn hiện ra trước nhận thức con người như cái gì đó độc lập, khách quan
không tuỳ thuộc vào quan niệm có trước, quyền con người trước khi trở
thành hiện thực, thành nguyên tắc mà quan hệ giữa người với người, giữa
nhà nước và cá nhân phải tuân theo, phải trở thành quan niệm của chính
con người, nghĩa là được con người coi là cái thiết yếu, cái cần phải
như vậy – cần cho sự tồn tại, sự phát triển toàn diện của con người
không chỉ về đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần nữa. Trong
thực tế, quyền con người luôn gắn với quan niệm chủ quan, với các giá tự
như vậy, cho nên, một mặt, chúng ta phải thừa nhận những quan niệm mang
tính dân tộc về quyền con người, và mặt khác , nhiều khi chúng ta phải
đối mặt với tình trạng là đôi khi nhân danh quyền con người, các cá
nhân, các nhóm người, vì lợi ích riêng của mình đã đưa ra những đòi hỏi
vô lý, trái với lợi ích chung của cả cộng đồng người. Do đó, vấn đề
quyền con người thường trở thành vấn đề gây tranh cãi trên trường quốc
tế, nhất là khi nó được lồng vào một động cơ chính trị nào đó.
Tóm lại, quyền con người là vấn đề phức tạp đa nghĩa,
chứa đựng những mặt đối lập, mâu thuẫn, nhưng không loại trừ nhau. Đó
là các mặt khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế và tinh
thần, văn hoá và chính trị, đạo lý và luật pháp. Nó cũng là sự kết hợp
giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại, v.v… Khi xem
xét quyền con người, chúng ta phải phân biệt rõ bản chất và hiện tượng
nội dung và hình thức, nguồn gốc và sự phát triển của nó.
Xuất phát từ tất cả những khía cạnh đó, có thể nói
rằng quyền con người chẳng qua là sự tự ý thức của con người về những
giá trị, những nhu cầu sống cơ bản, phù hợp với trình độ phát triển mang
tính thời đại của xã hội loài người.
Nói về quyền con người cần phải đề cập đến hai vấn đề cơ bản sau đây:
- Vấn đề tự do. Người ta thường đồng
nhất quyền con người với tự do cá nhân và ngược lại. Một nhà lý luận
hiện đại người Pháp, ông Morangie khẳng định: về một số mặt, hai từ này
là hai từ đồng nghĩa". Nani Palkhivala, luật sư cao cấp, người Ấn Độ
cũng khẳng định: "Nhân quyền có thể tóm gọn trong một từ – TỰ DO" (3).
Trên thực tế, khi người ta đấu tranh vì quyền con
người cũng tức là đấu tranh cho tự do của con người. Và ngược lại khi
đấu tranh cho tự do cũng chính là đấu tranh cho quyền con người. Tất
nhiên, cần phải hiểu tự do ở đây là tự do chân chính. Song, thế nào là tự do chân chính?
Để trả lời câu hỏi đó phải xem xét vấn đề một cách cụ thể, trong hoàn
cảnh cụ thể. Trước hết, đó là sự tự do trong xã hội, gắn với một xã hội
cụ thể mà người ta đang sống. Do đó, những hành vi chạy theo dục vọng và
nhu cầu bản năng, động vật, bất chấp nội quy tắc xã hội, không thể là
tự do chân chính. Sau nữa, chỉ là tự do khi tự do của người này không
xâm phạm đến tự do của người khác. Điều 4 trong Hiến pháp 1791 của Cộng
hoà Pháp có ghi : "Tự do là có thể làm mọi cái không hại cho người khác.
Cho nên, việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ có giới
hạn là việc bảo đảm cho những thành viên khác của xã hội cũng được hưởng
chính những quyền ấy".
Trong bất kỳ xã hội nào cũng vậy, muốn có tự do chân
chính cho mỗi cá nhân, nghĩa là bảo đảm quyền con người cho mỗi con
người, cần phải có hai tiền đề.
Thứ nhất, pháp luật, các quy tắc chung của xã hội
phải là sản phẩm, là sự thể hiện ý chí chung của xã hội. Chỉ có như thế
nó mới xứng đáng là "Kinh thánh của tự do của nhân dân"(4).
Thứ hai, mỗi cá nhân phải nhận thức được pháp luật
hay nói cách khác là nhận thức được những "tất yếu xã hội" quy định
trong luật pháp, và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với những quy
định đó.
- Nhu cầu của cuộc sống cần được đáp ứng.
Tự do là một nhu cầu thiết yếu, đặc trưng của con
người. Song, con người không chỉ có nhu cầu duy nhất là tự do, mà còn có
các nhu cầu vật chất và tinh thần khác nữa.
Người ta thường nói thế hệ thứ nhất của quyền con
người là các quyền trước cá nhân, tức là các quyền dân sự, chính trị.
Điều này là đúng, bởi các câu khẩu hiệu về quyền con người trong giai
đoạn đầu gắn liền với thời đại cách mạng tư sản. Trong cuộc cách mạng tư
sản đó, giai cấp tư sản khi giương cao ngọn cờ quyền con người trước
giai cấp phong kiến đang thống trị, đã kế thừa những tư tưởng tiến bộ về
quyền con người của các thời đại trước và luôn đề cao chính những đòi
hỏi về tự do xuất phát từ địa vị kinh tế và chính trị của nó. Đó là
những quyền tự do cá nhân, đặc biệt là các quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do hội họp, lập hội, biểu tình, quyền bầu cử, ứng cử, v.v…
Đó là những quyền hợp thành vũ khí sắc bén của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh quyền lực với giai cấp phong kiến.
Vì thế, ngày nay, khi nói đến quyền con người, nhiều
người đã chỉ nói đến các quyền này, coi chúng là tất cả. Điều đó chưa
thật đầy đủ. Cần phải thấy rằng giai cấp tư sản khi nêu lên ngọn cờ
quyền con người đã là chủ sở hữu lực lượng sản xuất của xã hội, đã là
người có sức mạnh kinh tế thực sự, đối với nó, các nhu cầu vật chất và
tinh thần của cuộc sống đã được thoả mãn, và do đó nó chỉ còn thiếu
quyền lực chính trị. Song, theo quan điểm duy vật về lịch sử, thì trước
khi làm chính trị, tôn giáo nghệ thuật, khoa học, người ta phải ăn, mặc,
ở…, nghĩa là phải tồn tại đã, phải được thoả mãn những nhu cầu cơ bản
của cuộc sống. Mà điều này lại chính là vấn đề quan tâm của đa số thành
viên trong xã hội. Bởi vậy, cần phải khẳng định rằng việc thoả mãn các
nhu cầu của cuộc sống không chỉ thuộc quyền chủ động của mỗi cá nhân,
nghĩa là thuộc phạm vi các quyền tự do cá nhân, mà còn thuộc phạm vi
nghĩa vụ của xã hội, của nhà nước đối với mỗi người. Do đó, có thể nói
rằng quyền con người chính là sự đáp ứng các nhu cầu của cuộc sông con
người. Với quan niệm này, các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá cũng là
những quyền con người. Chúng hợp thành nội dung không thể bỏ qua được
của quyền con người và có tầm quan trọng không kém các quyền dân sự,
chính trị. Tiếc rằng, trong cuộc đấu tranh tư tưởng về quyền con người
trên phạm vi quốc tế hiện nay, không phải ai cũng nhận thức rõ điều này.
Tóm lại, xuất phát từ góc độ triết học và căn cứ vào
những vấn đề cơ bản của quyền con người, có thể định nghĩa: quyền con
người là những đòi hỏi chính đáng về tự do và những nhu cầu cuộc sống cơ
bản cần được đáp ứng của con người.
(1) Đồng Vân Hồ. Nguồn gốc của khái
niệm nhân quyền và diễn biến lịch sử của nó. Tạp chí "Thế giới tri thức”
(Trung Quốc), số 13-1992.
(2) Từ Sùng Ôn. Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề nhân quyền. Tạp chí "Nghiên cứu triết học (Trung Quốc), số 12-1992.
(3) Quyền con người trong thế giới hiện đại. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.284.
(4) C.Mác, F. Engen. Toàn tập, t.I. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.85
SOURCE: TẠP CHÍ TRIẾT HỌC
0 comments:
Post a Comment