Saturday, October 26, 2013

QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN: QUI ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LUẬT MỘT SỐ NƯỚC

TS. TƯỜNG DUY KIÊN
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, đây không phải là khái niệm mới, mà đã xuất hiện trong Thời kỳ Ánh sáng vào thế kỷ 18. Chính trong đạo Luật về tự do báo chí của Thuỵ Điển được ban hành vào năm 1766 đã thiết lập nguyên tắc các hồ sơ của chính phủ phải công khai cho công chúng và trao cho người dân quyền được yêu cầu tiếp cận các văn bản của các cơ quan chính phủ.
I. Quyền tiếp cận thông tin – chuẩn mực và quy định quốc tế
1, Sơ lược lịch sử phát triển khái niệm quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, đây không phải là khái niệm mới, mà đã xuất hiện trong Thời kỳ Ánh sáng vào thế kỷ 18. Chính trong đạo Luật về tự do báo chí của Thuỵ Điển được ban hành vào năm 1766 đã thiết lập nguyên tắc các hồ sơ của chính phủ phải công khai cho công chúng và trao cho người dân quyền được yêu cầu tiếp cận các văn bản của các cơ quan chính phủ. Trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng xác lập nguyên tắc: “Việc tự do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người; mọi công dân có thể phát ngôn, viết hay tiến hành in ấn một cách tự do, nhưng phải chịu trách nhiệm về sự lạm dụng quyền tự do đó” (Điều 11); và “mọi công dân đều có quyền trực tiếp hoặc thông qua các đại diện của mình được xem xét sự cần thiết của thuế công cộng, được tự do thoả thuận đóng góp, được theo dõi việc sử dụng và được ấn định chỉ tiêu thuế, cách thức và thời hạn đóng góp; xã hội có quyền bắt mọi công chức phải báo cáo về công việc quản lý của họ” (xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb TP Hồ Chí Minh 1997, trang 15, 16). Tương tự, các nguyên tắc này, cũng được quy định trong Tuyên ngôn của Hà Lan vào năm 1795.
Như vậy, khái niệm quyền tiếp cận thông tin đã được quy định khá sớm, nếu so sánh với sự phát triển các quyền khác của con người. Tuy nhiên, thời điểm đó, quyền tiếp cận thông tin công mới chỉ được quy định trong phạm vi một vài quốc gia.
Quyền tiếp cận thông tin chỉ trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên hợp quốc (LHQ) ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Nghị quyết số 59 (1), quy định: tự do thông tin là quyền con người cơ bản và là nền tảng của tất cả các tự do khác. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người được thông qua vào năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003.
Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR), và trong Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (được ký kết vào ngày 30/11/2001 ở Tookyo (Nhật Bản), cũng đã quy định rõ về tiếp cận thông tin: bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với pháp luật trong nước … (Xem: Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nxn Công an nhân dân, H, 2007, trang 30) Hiện nay, các nước trên thế giới dù khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hoá trong pháp luật quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tính đến tháng 9/2007 đã có khoảng 70 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công. Ví dụ: Canađa ban hành năm 1983, Hunggari năm 1992, Vương quốc Anh năm 2000, Nam Phi năm 2000, Mỹ năm 1966, Liên bang Nga năm 2006… ở Châu Á, một số nước cũng đã ban hành luật về tiếp cận thông tin như Thái Lan năm 1997, Hàn Quốc năm 1998, Nhật Bản năm 2004 và ấn Độ năm 2005, Trung Quốc năm 2007.
2, Nội hàm khái niệm quyền tiếp cận thông tin công
Lược khảo các quy định liên quan đến quyền tiếp cận thông tin cho thấy, quyền tiếp cận thông tin hay quyền tự do thông tin có phạm vi rộng, liên quan chặt chẽ với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Điều 19, Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp, và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không có biên giới”
Điều 19, khoản 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác, tuỳ theo sự lựa chọn của họ”.
Như vậy, cả Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị đều ghi nhận tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người, trong đó đề cập khá rõ nội hàm của quyền này, bao gồm: tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp.
Bên cạnh các quy định trên, nội dung quyền tiếp cận thông tin còn được làm rõ trong một số văn kiện nhân quyền khu vực như Điều 10 (1) của Công ước Nhân quyền Châu Âu, Điều 13 (1) của Công ước Nhân quyền Châu Mỹ và trong bản Tuyên bố liên Mỹ về các nguyên tắc của tự do bày tỏ ý kiến, Nguyên tắc 2 quy định: “Mọi người có quyền được tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và quan điểm một cách tự do theo quy định tại Điều 13 của Công ước Nhân quyền Châu Mỹ. Mọi người được có cơ hội bình đẳng để tiếp nhận, tìm kiếm và phổ biến thông tin bằng mọi hình thức tuyên truyền mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì lý do chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, địa vị kinh tế, nơi sinh hay bất kỳ điều kiện xã hội nào khác”.
Nghiên cứu quy định trong các văn kiện nhân quyền khu vực, quyền tiếp cận thông tin cũng nằm trong khái niệm quyền tự do ngôn luận như quy định tại Điều 19 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Công ước đã quy định nội hàm khái niệm quyền tự do ngôn luận bao hàm cả quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin.
Tuyên bố về nguyên tắc: Xây dựng Xã hội thông tin – một thách thức toàn cầu trong thiên niên kỷ mới, đã khẳng định nền tảng thiết yếu của Xã hội thông tin như đã được quy định trong Điều 19 của Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới với bốn thành tố là quyền tự do giữ quan điểm không bị sự can thiệp; quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến. Và truyền thông là một quá trình xã hội cơ bản, nhu cầu thiết yếu của con người, là nền tảng của tất cả tổ chức xã hội, mà trung tâm là Xã hội thông tin. Mọi người, ở bất kỳ đâu phải có cơ hội được tham gia và không ai bị loại ra khỏi lợi ích của Xã hội thông tin (Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về xã hội thông tin thông qua tại Giơ-ne-vơ, tháng 12/2003. Xem http://www.worldsummit2003.org/) . Như vậy, quyền tiếp cận thông tin có nội dung rộng và để thực hiện quyền này, cá nhân có quyền tự do tìm kiếm; tự do tiếp nhận và tự do phổ biến thông tin.
- Tự do tìm kiếm thông tin thể hiện tính chủ động hơn là bị động của mỗi cá nhân để có được thông tin cần thiết mà cá nhân, công dân quan tâm. Cá nhân, công dân có quyền yêu cầu, đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị nắm giữ thông tin công, có nghĩa vụ cung cấp thông tin đó cho mình.
- Tự do tiếp nhận thông tin : cá nhân, công dân được nhận thông tin qua các kênh khác nhau (các phương tiện thông tin đại chúng như các loại hình báo chí) và tránh nhiệm Nhà nước là thường xuyên tổ chức cung cấp thông tin định kỳ mà Nhà nước nắm giữ để cho công chúng biết, kể cả khi công dân không có yêu cầu.
- Tự do phổ biến thông tin : cá nhân, công dân có thông tin được quyền truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin mà mình đang nắm giữ cho mọi người mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về ranh giới hay các hình thức đưa tin.
Ba nội dung trên chính là những nội dung cốt lõi của quyền tiếp cận thông tin, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo cho cá nhân, công dân được thực hiện quyền này.
3, Các khía cạnh khác nhau của nội hàm khái niệm quyền tiếp cận thông tin và lợi ích của quyền tiếp cận thông tin
3.1. Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin chính là mọi cá nhân, công dân được quyền tiếp cận hồ sơ, tài liệu của cơ quan nhà nước có chức năng thực hiện nhiệm vụ công (cơ quan công quyền). Điều này phản ánh nguyên tắc cơ quan công quyền không được lưu giữ thông tin thay mặt chính họ, mà là thay mặt, hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội. Do đó, cá nhân, công dân có quyền được tiếp cận thông tin công, trừ khi những thông tin thuộc giới hạn không được phép tiếp cận. Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân còn có ý nghĩa thứ hai, là quyền chủ động được yêu cầu, và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước là phải công bố, phổ biến rộng rãi các loại thông tin vì lợi ích của cộng đồng; và
- Quyền tiếp cận thông tin, bắt đầu xuất hiện đó là quyền được biết sự thật. Nó phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mọi công dân biết sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đến quản lý tư pháp, quản lý hành chính của đất nước; về các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh nói chung; về bảo vệ quyền và các tự do của mọi cá nhân, công dân. Các thông tin này được xác định đó là thông tin công, được cơ quan công quyền lưu giữ thay mặt nhân dân, do đó có trách nhiệm bảo quản, và tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân, công dân được quyền tiếp cận hồ sơ chứa đựng các thông tin này.
3.2. Lợi ích của quyền tiếp cận thông tin:
Một là, tăng cường mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và công dân
- Tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản của công dân. Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin công được quy định và thừa nhận rộng rãi trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, không chỉ là công cụ, phương tiện thiết yếu để công dân có điều kiện tham gia vào công việc nhà nước, quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, vừa nâng cao tính minh bạch, tính trách nhiệm trong hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa bệnh quan liêu, phòng ngừa tham nhũng.
Một khi người dân chủ động tham gia vào các hoạt động của nhà nước và xã hội; đóng góp ý kiến vào xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, sẽ giúp cho nhà nước hoạch định chính sách, pháp luật vừa sát thực tế, vừa hợp với lòng dân, sẽ bảo đảm sự đồng thuận xã hội trước khi ban hành quyết định, qua đó giúp cho điều hành và quản trị xã hội được hiệu quả hơn.
- Thông tin công khai và bảo đảm quyền tiếp cận công bằng sẽ giảm thiểu sự độc quyền và lũng đoạn thông tin; tăng cường khả năng cạnh tranh lành mạnh trong xã hội, qua đó, củng cố lòng tin của người dân đối với nhà nước và chế độ xã hội, mở rộng các hoạt động chính trị, xã hội và làm cho đất nước ngày một phồn thịnh, an ninh trật tự được giữ vững; các nhóm lợi ích trong xã hội được duy trì và bảo đảm công bằng, phát triển hài hòa. Bên cạnh đó, tự do thông tin còn giúp cho việc nâng cao tính trách nhiệm của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền khác của con người được tốt hơn. Người dân có điều kiện kiểm chứng quyền và nghĩa vụ của người dân được được cơ quan công quyền tôn trọng và thực hiện ở mức độ nào.
Hai là, đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng, thì :
- Tiếp cận thông tin giúp cho các nhà đầu tư, nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu, về chính sách, pháp luật, sẽ giảm được chi phí khởi nghiệp, tránh rủi ro; và qua đó tin tưởng hơn vào các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình; xây dựng cho mình các chiến lược,kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, dự liệu và tiên đoán được những thay đổi và kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp.
- Tiếp cận được thông tin về trình tự, các thủ tục hành chính, tư pháp sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các cơ quan công quyền trong việc thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh… Minh bạch hóa các thủ tục này cũng giúp phần giảm thiểu khả năng nhũng nhiễu và lạm dụng quyền lực từ phía cơ quan công quyền.
- Tiếp cận được thông tin về những phán quyết của toà án và các cơ quan có thẩm quyền khác liên quan đến giải quyết tranh chấp trong đầu tư, kinh doanh, thương mại sẽ giúp các doanh nghiệp tiên lượng được những gì có thể xảy ra và tránh được những điều cần tránh. Hơn nữa, công khai các phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp sẽ bảo đảm các cơ quan giải quyết được khách quan hơn, tự nâng cao trách nhiệm đối với việc ban hành quyết định và ra các bản án.
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tự do thông tin về những cam kết trong hội nhập kinh tế, quốc tế, về luật lệ, nguyên tắc kinh doanh, làm ăn với các đối tác nước ngoài còn là cơ sở giúp doanh nghiệp, các nhà đầu tư tự tin, sẵn sàng, chủ động hơn trong quá trình hội nhập, giảm thiểu khả năng rơi vào tình thế bị động trước các đối thủ cạnh tranh; và
- Đối với người tiêu dùng, tự do thông tin giúp cho người tiêu dùng lựa chọn được sản phẩm hàng hóa đúng mẫu mã, chất lượng và giá thành; tránh mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng; qua đó cải thiện cuộc sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
4, Những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin
Quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin là quyền có giới hạn. Điều này có nghĩa là tự do thông tin không phải tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, tiếp cận tất cả các loại hồ sơ, tài liệu lưu giữ thông tin. Điều 19 khoản 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy định: Việc thực hiện quyền này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt và do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định do pháp luật quy định. Những giới hạn đó là:
- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng (Xem Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1998, tr 187).
Trong bản Tuyên bố chung, đại diện về tự do của cơ chế truyền thông quốc tế nhằm thúc đẩy tự do biểu đạt nhấn mạnh: "Quyền tiếp cận thông tin chỉ bị giới hạn bởi rất ít những ngoại lệ nhằm bảo vệ các lợi ích cần thiết của nhà nước và tư nhân, bao gồm cả đời tư”. (Tuyên bố chung, đại diện về tự do của Cơ chế truyền thông Quốc tế nhằm thúc đẩy Tự do biểu đạt (báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do chính kiến và Biểu đạt, Đại diện của OSCE về tự do truyền thông và báo cáo viên đặc biệt của OAS về tự do biểu đạt ngày 06/12/2004).
Giới hạn của quyền này cũng được quy định trong một số văn kiện nhân quyền khu vực. Tuyên bố liên Mỹ về các nguyên tắc của tự do bày tỏ ý kiến quy định việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin cho phép một số hạn chế ngoại lệ, nhưng phải được pháp luật cho phép trước trong trường hợp thực sự có sự đe doạ đến an ninh quốc gia trong các xã hội dân chủ (Tuyên bố liên Mỹ về các nguyên tắc của tự do bày tỏ ý kiến, được Uỷ ban liên Mỹ về quyền con người thông qua tại khoá họp thường kỳ thứ 108 của tổ chức này).
Như vậy, theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và một số văn kiện nhân quyền khu vực, việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin là có giới hạn và giới hạn đó phải được quy định trong pháp luật quốc gia, nhằm tôn trọng quyền và uy tín của người khác; hay vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hay đạo đức công chúng.
Theo nội dung quy định này, những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin phải được pháp luậtcho phép hay quy định trước. Điều đó có nghĩa là, việc giới hạn thực hiện quyền này phải được quy định cụ thể trong pháp luật của quốc gia. Theo đó, chính phủ mỗi nước cần xác định rõ những loại thông tin nào là thông tin công cần phải được công khai và những loại thông tin nào cần phải được bảo mật. Nguyên tắc chung là không cần thiết phải giữ kín nếu như việc tiết lộ các loại thông tin đó không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, sức khỏe, đạo đức của công chúng; không phương hại tới quyền hoặc uy tín của người khác.
Hiện nay, xu hướng chung các nước trên thế giới là áp dụng nguyên tắc chính phủ mở theo hướng minh bạch hóa, công khai hóa và tính trách nhiệm. Vì vậy, nếu việc can thiệp chỉ thuần tuý dựa trên một quyết định hành chính, hay ý kiến chủ quan của cơ quan công quyền mà không rõ ràng, không có căn cứ pháp lý cụ thể có thể dẫn tới vi phạm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân đã được pháp luật quốc tế quy định.
II. Đặc điểm chung của Luật Tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới
1, Về phạm vi áp dụng của luật
Khảo lược các luật đã được các quốc gia thông qua, cho thấy, tiếp cận thông tin hầu hết áp dụng cho các cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp; bao gồm một loạt các cơ quan thực hiện chức năng công trên lĩnh vực sức khỏe; giáo dục, ngân sách, tài chính, môi trường, thuế, điện, truyền thông và giao thông; một số ít áp dụng cả đối với nhánh quyền tư pháp (tòa án).
Điểm đáng chú ý là, đa số luật của các nước đều quy định cụ thể trong luật về khái niệm cơ quan công quyền. Một số nước liệt kê cụ thể danh mục các chủ thể công có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho công chúng như Luật tự do thông tin của Vương quốc Anh.
Một số quốc gia quy định về tiếp cận thông tin do các chủ thể tư nhân nắm giữ, như Luật thúc đẩy Tiếp cận thông tin của Cộng hòa Nam Phi cho phép cá nhân, các cơ quan Chính phủ yêu cầu thông tin từ các chủ thể tư nhân nếu yêu cầu đó là cần thiết để thực thi quyền của người khác. ở Đan Mạch, Luật tiếp cận Hồ sơ hành chính công, áp dụng cả đối với công ty khí gas tự nhiên, và nhà máy điện. Các nước thông qua luật sau khi Công ước tiếp cận thông tin môi trường được LHQ thông qua năm 1998, đều quy định quyền tiếp cận thông tin về môi trường; yêu cầu các công ty phải công bố thông tin về các mối đe dọa tiềm tàng đối với môi trường có ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
2, Thuật ngữ, khái niệm tiếp cận thông tin
Luật của các nước sử dụng rất khác nhau về thuật ngữ để miêu tả cá nhân, công dân có quyền được tiếp cận thông tin công (right to access public information). Một số nước sử dụng quyền được tiếp cận các hồ sơ, tài liệu chính thức hoặc các files, dữ liệu văn bản, như Anbani, Bỉ, Colombo, Đan Mạch, Pháp, Hungari, Nhật Bản. Ngược lại một số nước khác thường sử dụng quyền được thông tin (right to information), như ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ… Cũng có một số nước sử dụng là luật tự do thông tin, như Vương quốc Anh, Israel, Iceland, Latvia, Nauy, Mỹ… Trên thực tế, không có sự khác nhau lắm về nội dung và phạm vi điều chỉnh, hầu hết các luật đều xác định quyền được thông tin với nội hàm rộng bao gồm tất cả các thông tin đang được lưu giữ bởi cơ quan công quyền. Một số nước như Thụy Điển, Anbani, Kosovo, Newzeland… sử dụng thuật ngữ tiếp cận tài liệu chính thức, không bao gồm các tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc dự thảo không được sử dụng để ban hành quyết định cuối cùng. Nhìn chung, quyền tiếp cận thông tin chỉ áp dụng đối với thông tin có trong hồ sơ chính thức. Đây cũng là một khoảng trống vì có nhiều thông tin cụ thể khác, thông tin qua truyền miệng (như thông tin được thảo luận, kết luận trong các cuộc họp) có thể được sử dụng để ban hành quyết định thì các nước ít quan tâm tới loại thông tin này.
3, Chủ thể yêu cầu được cung cấp thông tin
Hầu hết các quốc gia đều cho phép mọi cá nhân có quyền yêu cầu được cung cấp thông tin, bất kể địa vị pháp lý của họ là công dân hay nơi cư trú. Luật tiếp cận thông tin của Canada, mục 4 quy định rõ: chủ thể có quyền tiếp cận thông tin bao gồm: công dân Canada, người thường trú dài h?n… hay luật của Bungari, còn mở rộng sang cả người nước ngoài và các cá nhân không có quốc tịch, hay pháp nhân, cũng có quyền yêu cầu tiếp cận thông tin. Tương tự, Luật về Quyền được thông tin năm 2003 của Thổ Nhĩ Kỳ cũng mở rộng chủ thể là người nước ngoài sinh sống ở Thổ Nhĩ Kỳ và các pháp nhân nước ngoài hoạt động ở Thổ Nhĩ Kỳ có quyền được thông tin với điều kiện là thông tin họ yêu cầu phải liên quan đến họ hoặc lĩnh vực họ hoạt động và trên cơ sở nguyên tắc có đi, có lại. Một số nước, như Phần Lan còn cho phép yêu cầu nặc danh để bảo đảm rằng, người yêu cầu không bị phân biệt đối xử. Điều 13 Luật về công khai các hoạt động của Chính phủ năm 1999 quy định “người yêu cầu không cần nêu rõ lý lịch và lý do mình yêu cầu cung cấp tài liệu, trừ khi điều đó là cần thiết để nhà chức trách xem xét việc có thể cung cấp tài liệu cho họ hay không”.
4, Các ngoại trừ cung cấp thông tin
Tất cả luật của các nước đều xác định phạm vi thông tin có thể bị từ chối cung cấp. Những thông tin thuộc phạm vi miễn trừ tiết lộ, hầu hết các nước đều liệt kê chi tiết trong luật về tiếp cận thông tin hoặc ban hành đạo luật riêng quy định về những loại thông tin cần bảo mật. Tính bảo mật hay các loại thông tin miễn trừ cung cấp, thường là các loại thông tin liên quan đến an ninh quốc gia, quốc phòng, an ninh và các quan hệ quốc tế; thông tin về đời tư cá nhân; thông tin liên quan đến hoạt động thương mại, bí mật kinh doanh; thông tin về thực thi pháp luật; trật tự công cộng… Ví dụ ở Vương quốc Anh, bên cạnh Đạo luật về Bảo vệ dữ liệu được ban hành năm 1998, Luật Tự do thông tin năm 2000 còn quy định một phần riêng (phần II), từ mục 21 đến mục 44 quy định các loại thông tin thuộc phạm vi miễn trừ tiết l?. Hay Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền năm 1996 của Hàn Quốc, tại Điều 7 liệt kê tám loại thông tin không được phép công khai. Đó là những loại thông tin mà nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại lớn đến quyền lợi của quốc gia, như an ninh quốc gia, quốc phòng, sự thống nhất đất nước hay quan hệ ngoại giao; thông tin nếu tiết lộ sẽ gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản, an toàn, lợi ích của cộng đồng; thông tin liên quan đến phòng chống, điều tra tội phạm, đến hoạt động kiểm toán, giám sát và phát triển khoa học, quản lý nhân sự; hoạt động kinh doanh, thương mại.
Trong các loại thông tin thuộc phạm vi miễn trừ cung cấp, các nước đều xếp an ninh quốc gia (quốc phòng, an ninh), hay bí mật đời tư, các thông tin về hoạch định chính sách phát triển khoa học, các lợi ích kinh tế của quốc gia thường thuộc mức độ bảo vệ cao nhất (tuyệt mật).
5, Về cơ chế khiếu nại và giám sát
Cơ chế khiếu nại, giám sát và việc thực thi luật giữa các nước có sự khác nhau. Cơ chế này thường bao gồm: xem xét lại ở cấp độ hành chính, đưa ra tòa án hoặc thiết lập cơ quan giám sát độc lập.
- Mức độ đầu tiên của khiếu nại, gần như luật của các nước đều quy định là xem xét lại trong phạm vi nội bộ. Một khi xem xét nội bộ đã hoàn thành mà yêu cầu của nguyên đơn không được giải quyết thỏa đáng, thì giai đoạn tiếp theo là đưa ra cơ quan bên ngoài xem xét. Khoảng hơn 20 quốc gia đã thiết lập Thanh tra Quốc hội (là nhân viên được Quốc hội bổ nhiệm) có quyền yêu cầu xem xét lại quyết định. Thanh tra Quốc hội không có thẩm quyền ban hành quyết định có giá trị hiệu lực bắt buộc, nhưng hầu hết ở các quốc gia, ý kiến của Thanh tra có ảnh hưởng /giá trị lớn đối với các cơ quan hành chính. Xu hướng tăng lên là các nước thiết lập ủy ban thông tin độc lập, như là một cơ quan của Quốc hội, độc lập với Chính phủ và văn phòng Thủ tướng. Nhiều nước gắn ủy ban tự do thông tin với ủy ban bảo vệ dữ liệu như Anh, Đức, Thụy Sĩ.
Một số nước thiết lập cơ chế trọng tài để xem xét lại các quyết định. Mức độ xem xét cuối cùng là đưa ra tòa án. Tòa án có quyền xem xét lại hầu hết các hồ sơ và có thể ra quyết định cuối cùng và sẽ có hiệu lực pháp lý bắt buộc phải thi hành.
6, Về các biện pháp chế tài
Hầu hết luật về tiếp cận thông tin của các nước đều có các quy định về xử phạt đối với cơ quan công quyền và nhân viên trong trường hợp từ chối cung cấp thông tin hay tiết lộ thông tin trái pháp luật. Trường hợp cơ quan công quyền hoặc nhân viên từ chối không hợp pháp hoặc thay đổi, phá hủy tài liệu thì các biện pháp chế tài được áp dụng đối với nhân viên hành chính đó có thể là chế tài hành chính hoặc hình sự tùy mức độ, và có thể áp dụng các biện pháp xử phạt cả đối với cơ quan công quyền.
Điều 42, Luật Tiếp cận thông tin công của Bungari quy định cụ thể mức xử phạt trong trường hợp một nhân viên dân sự không trả lời yêu cầu tiếp cận thông tin công trong thời gian quy định mà không có lý do để bào chữa, thì bị phạt tối thiểu từ 20 đến 50 leva; hoặc nếu không thực hiện phán quyết của tòa án có thể phạt từ 100 đến 300 leva… Luật của Nhật Bản còn áp dụng cả biện pháp phạt tù tối đa tới một năm, và phải lao động hoặc bị phạt tới 300.000 yên Nhật nếu như vi phạm khoản 8 điều 23 về tiết lộ bí mật. Luật của Phần Lan quy định cụ thể về các chế tài như hành vi vi phạm quy định về bảo mật nêu trong mục 22 hoặc quy định về bí mật thông tin và cấm sử dụng thông tin nêu trong mục 23 của Luật sẽ bị trừng phạt theo quy định tại chương 40, mục 5 của Bộ luật Hình sự.
7, Về công khai thông tin
Đặc điểm chung trong hầu hết luật của các nước là quy định nghĩa vụ của cơ quan chính quyền liệt kê các loại thông tin phải công khai cho công chúng. Bao gồm chi tiết về cấu trúc chính phủ, các vị trí chủ chốt, văn bản pháp luật và các quy định, chính sách về tài chính, ngân sách, kiểm toán, các khoản thu chi, các thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, thanh tra, giám sát bảo vệ môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm, cứu trợ, thiên tai, xóa đói, giáo dục, y tế, đền bù, giải tỏa…
Thông tin điện tử: Khuynh hướng chung đối với tiếp cận thông tin được sử dụng tăng lên là sử dụng hệ thống điện tử để chuyển các yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân và công khai thông tin. Nhiều luật quy định công khai thông tin trên mạng, qua các website của cơ quan. Ví dụ Luật Tiếp cận thông tin công của Ba Lan quy định các cơ quan công quyền phải công bố thông tin một cách chi tiết về các chính sách, tổ chức, các nguyên tắc hoạt động, nội dung các quyết định, luật hành chính, tài sản công trong Bản tin Thông tin công trên trang web.
8, Trì hoãn cung cấp thông tin
Nhìn chung, luật tiếp cận thông tin của các nước đều quy định các cơ quan công quyền có trách nhiệm trả lời yêu cầu càng sớm càng tốt, và thường là xác định một khoảng thời gian tối đa là hai hoặc bốn tuần. Luật của Hàn Quốc về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền, xác định cơ quan chính quyền sẽ quyết định có cung cấp thông tin hay không trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. Nếu như không thể ra quyết định được trong khoảng thời gian trên vì lý do không thể tránh khỏi, cơ quan chính quyền có thể gia hạn thêm thời gian nữa và không vượt quá 15 ngày kể từ ngày tiếp theo của thời hạn kết thúc trước, và việc gia hạn phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu về lý do gia hạn. Một số nước nhỏ, hoặc những nước đã ban hành luật, thì quy định cơ quan công quyền nhất định phải trả lời nguyên đơn trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và phải cung cấp thông tin càng sớm càng tốt. Một số nước cho phép yêu cầu bằng lời nói, và yêu cầu nhất định phải được trả lời ngay lập tức nếu có thể. Cũng có những quy định bổ sung về thời gian phụ nếu yêu cầu có tính phức tạp hoặc yêu cầu cần phải được chuyển tới cơ quan công quyền khác có trách nhiệm lưu giữ, kiểm soát thông tin đó.
9, Về lệ phí tiếp cận thông tin
Luật của đa số các nước cho phép các cơ quan chính phủ được đòi hỏi về lệ phí cung cấp thông tin đối với người có yêu cầu. Đặc điểm chung của lệ phí bao gồm các khoản như: hồ sơ, tìm kiếm văn bản, phô tô văn bản, tài liệu và phí khiếu nại Điều 13 Luật về Quyền tiếp cận thông tin của Cộng hòa Anbani quy định: Việc cung cấp thông tin về tài liệu chính thức có thể bị thu phí nếu như việc cung cấp đó gây ra phí tổn … Hay Luật Tiếp cận thông tin công của Bungari quy định rõ tại Điều 20 rằng, việc tiếp cận các thông tin công là miễn phí (khoản1); các chi phí phát sinh từ việc cho phép tiếp cận thông tin công sẽ được hoàn trả với mức chi phí do Bộ Tài chính quyết định và không được vượt quá giá trị thật. Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính quy định: người đưa ra yêu cầu cung cấp thông tin và người tiếp nhận văn bản hành chính được cung cấp phải trả một khoản phí. Việc quyết định mức phí cần đặc biệt tính đến khả năng chi trả của người yêu cầu. Đối với các trường hợp khó khăn về kinh tế hoặc có các lý do đặc biệt khác ảnh hưởng tới việc chi trả các lệ phí cung cấp thông tin, theo quy định tại Luật của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan hành chính có thể giảm hoặc miễn các lệ phí.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 112-114 THÁNG 1 NĂM 2008

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code