THS. BÀNH QUỐC TUẤN – Khoa Luật, Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Hợp đồng dân sự (HĐDS)
có yếu tố nước ngoài (YTNN) là HĐDS có chủ thể nước ngoài tham gia; căn
cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước
ngoài hoặc theo pháp luật nước ngoài; tài sản liên quan đến hợp đồng nằm
ở nước ngoài. Chính YTNN dẫn đến hiện tượng cùng một lúc có thể có
nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh hợp đồng. Từ đó, việc
xác định luật áp dụng cho hợp đồng cũng như để bảo vệ lợi ích của các
bên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tất yếu sẽ gặp
nhiều khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, một trong những nguyên tắc
quan trọng được pháp luật các nước cũng như các điều ước quốc tế (ĐƯQT)
ghi nhận là các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền thỏa thuận chọn
luật áp dụng cho hợp đồng.
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận trong quan
hệ hợp đồng, pháp luật các nước đều thừa nhận luật áp dụng cho nội dung
HĐDS có YTNN trước tiên là luật do các bên tham gia quan hệ hợp đồng
thỏa thuận lựa chọn. Dĩ nhiên, sự lựa chọn này phải đáp ứng những điều
kiện do chính hệ thống pháp luật đó đặt ra. Nhìn vào các HĐDS có YTNN,
đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc tế chúng ta thấy ngoài những nội dung
cơ bản được ghi nhận tương tự với HĐDS trong nước như chủ thể, đối
tượng, quyền và nghĩa vụ của các bên… còn xuất hiện điều khoản luật áp
dụng (applicable law). Vận dụng nguyên tắc này, pháp luật Việt Nam đã
quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho HĐDS có YTNN trong nhiều
văn bản pháp luật: Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2 Điều 4); Luật
Thương mại 2005 (khoản 2, khoản 3 Điều 4); Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam 2006 (khoản 2, khoản 3 Điều 4). Đặc biệt, đoạn 1 khoản 1 Điều 769
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định rõ: “Quyền và nghĩa vụ của các
bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện
hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành, cơ sở đầu tiên để xác định luật áp dụng cho
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là sự thỏa thuận của các
bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Tuy nhiên, để có thể áp dụng điều khoản thỏa thuận
chọn luật áp dụng cho hợp đồng, có hai vấn đề cần phải làm rõ là sự thỏa
thuận lựa chọn luật này phải đáp ứng những điều kiện gì mới trở thành
hợp pháp và căn cứ vào luật pháp nước nào để xác định những điều kiện
này?
Trả lời câu hỏi thứ nhất liên quan đến việc
xác định rõ phạm vi những vấn đề trong hợp đồng mà pháp luật cho phép
các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng. Tư pháp quốc tế các nước trên
thế giới đều xác định phạm vi những vấn đề mà các bên được quyền thỏa
thuận lựa chọn luật áp dụng và như vậy, những vấn đề khác các bên không
được phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo sự điều
chỉnh của hệ thống pháp luật bắt buộc áp dụng cho HĐDS có YTNN đó. Như
vậy, điều kiện thứ nhất để thỏa thuận chọn luật hợp pháp là sự lựa chọn
phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép lựa chọn luật áp dụng cho
hợp đồng. Cụ thể, khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 chỉ cho phép các bên
thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng; còn đối với vấn đề hình thức hợp đồng, các bên không
được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo pháp luật của
nước nơi giao kết hợp đồng (Điều 770); hoặc vấn đề xác định nơi giao kết
hợp đồng trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì phải tuân theo
pháp luật của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của
pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 771).
Bên cạnh đó, quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp
dụng của các bên còn bị hạn chế hay nói cách khác, bị “tước bỏ”, ngay cả
trong những vấn đề luật cho phép lựa chọn luật áp dụng. Cụ thể: đoạn 2
khoản 1 Điều 769 BLDS 2005 quy định nếu hợp đồng được giao kết tại Việt
Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật
Việt Nam. Ngoài ra, thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên cũng sẽ
vô hiệu do điều khoản về bảo lưu trật tự công cộng như quy định tại
Điều 759 BLDS 2005: “nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng
không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” và một số văn bản pháp luật khác với cụm từ tương tự.
Phân tích các quy định này cho thấy, dường như pháp luật Việt Nam có
khuynh hướng giới hạn đến mức có thể phạm vi những vấn đề của HĐDS có
YTNN mà các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng.
Trả lời câu hỏi thứ hai, căn cứ vào cơ sở
pháp lý nào để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận chọn luật? Câu hỏi
này liên quan đến một vấn đề cũng thuộc về pháp luật điều chỉnh các quan
hệ hợp đồng có YTNN là xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát
sinh từ HĐDS có YTNN. Tranh chấp về HĐDS có YTNN có thể được giải quyết ở
cơ quan tài phán nước này nhưng cũng có thể ở cơ quan tài phán nước
khác1. Về nguyên tắc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh từ HĐDS có YTNN sẽ áp dụng những quy định của
pháp luật trong tư pháp quốc tế nước mình để giải quyết vụ việc. Như
vậy, cơ sở để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận chọn luật áp dụng,
hay nói cách khác, cơ sở để xem xét luật được lựa chọn đã thỏa mãn điều
kiện về chọn luật hay chưa chính là tư pháp quốc tế của nước có cơ quan
tài phán có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp phát sinh từ HĐDS có
YTNN. Trở lại với những quy định về điều kiện chọn luật áp dụng của pháp
luật Việt Nam vừa trình bày ở trên, rõ ràng những điều kiện này chỉ có
thể được áp dụng xem xét tính hợp pháp của việc lựa chọn pháp luật khi
vụ việc tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài phán Việt
Nam. Tư pháp các nước trên thế giới đều thừa nhận nguyên tắc này.
Như vậy, về cơ bản, quy định của BLDS 2005 cho phép
các bên tham gia quan hệ HĐDS có YTNN được thỏa thuận chọn luật áp dụng
cho hợp đồng. Tuy nhiên, luật chỉ quy định rất chung “nếu không có thỏa
thuận khác” mà không có thêm bất cứ sự quy định hay giải thích gì cụ thể
nên trong thực tế vận dụng quy định này đã phát sinh nhiều vấn đề cần
phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
2. Vấn đề phát sinh từ
thực tiễn xác định luật áp dụng trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài theo nguyên tắc thỏa thuận và đề xuất góp phần hoàn thiện pháp
luật
Những năm gần đây, cùng với việc ngày càng tham gia
sâu hơn vào các hoạt động kinh tế quốc tế thì những yêu cầu về xác định
luật áp dụng đối với HĐDS có YTNN ở Việt Nam ngày càng trở nên cấp
thiết, khi mà vai trò của loại hợp đồng này ngày càng trở nên quan trọng
và những vấn đề có liên quan cũng như tranh chấp liên quan đến loại hợp
đồng này ngày càng nhiều và phức tạp. Pháp luật Việt Nam quy định rõ
ràng về quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho quyền và nghĩa vụ
trong HĐDS có YTNN. Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn tiếp tục phải làm rõ về
quy định này trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể:
- Các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng cho một phần
của hợp đồng không? Nói cách khác, các bên có quyền lựa chọn nhiều hệ
thống pháp luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng hay không? Thực tiễn cho
thấy có những HĐDS có YTNN (ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế)
có nội dung rất dài và bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Chính vì vậy, đôi
khi phát sinh nhu cầu thực tế là các bên cần thỏa thuận chọn nhiều hệ
thống pháp luật và một hệ thống pháp luật chỉ áp dụng điều chỉnh một
phần của hợp đồng. Thậm chí ngay cả khi thỏa thuận chọn luật áp dụng cho
toàn bộ hợp đồng vẫn có trường hợp các bên lựa chọn nhiều luật áp dụng
cho hợp đồng để phòng ngừa tình huống một hệ thống pháp luật không điều
chỉnh hết các vấn đề của hợp đồng. BLDS 2005 không có quy định về vấn đề
này, nhưng một số văn bản pháp luật chuyên ngành lại quy định hợp đồng
có thể được chi phối bởi hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau2.
Tham khảo Công ước Rome 1980 về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng và
Quy tắc Rome I, tại Điều 3 của cả hai văn bản đều quy định: “Bằng thỏa
thuận của mình, các bên có thể chọn luật áp dụng cho toàn bộ hoặc chỉ
một phần của hợp đồng”3. Tham khảo thực tiễn các nước cũng
như Việt Nam cho thấy hiện tượng này thường xuyên xảy ra. Quan điểm này
được các chuyên gia châu Âu về tư pháp quốc tế chấp nhận và đã được ghi
nhận tại văn bản pháp luật của nhiều quốc gia4. Vì vậy, theo
chúng tôi, BLDS 2005 cần quy định thống nhất về quyền của các bên được
chọn luật áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ hợp đồng và quyền được lựa
chọn nhiều hệ thống pháp luật khác nhau áp dụng cho một quan hệ HĐDS có
YTNN.
- Quy định về hình thức thể hiện sự thỏa thuận chọn
luật áp dụng trong hợp đồng. Trong phần lớn trường hợp, các bên trong
hợp đồng đều thể hiện rõ ràng ý chí của mình về việc lựa chọn luật áp
dụng cho hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, các bên
không thể hiện rõ ràng ý chí của mình hoặc quy định theo kiểu “thỏa
thuận ngầm” thì khi xảy ra tranh chấp việc xác định luật áp dụng giải
quyết là rất phức tạp. Điều 769 BLDS không quy định về hình thức thể
hiện của điều khoản chọn luật cho hợp đồng. Tham khảo Công ước Rome 1980
và Quy tắc Rome I chúng ta thấy đều có quy định thỏa thuận chọn luật
phải được thể hiện hoặc chứng tỏ một cách chắc chắn bằng các điều khoản
của hợp đồng hoặc hoàn cảnh của vụ việc. Tương tự, Điều 2 Công ước La
Haye 1955 về luật áp dụng cho mua bán hàng hóa quốc tế quy định ý chí
của các bên về luật áp dụng phải được thực hiện một cách trực tiếp hay
xuất phát từ quy định của hợp đồng một cách cụ thể; Điều 7 Công ước La
Haye 1986 về luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy
định thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng phải được thể hiện rõ ràng hay
xuất phát trực tiếp từ điều kiện của hợp đồng và cách xử sự của các bên
được xem xét trong tổng thể.
Xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, theo
chúng tôi, BLDS 2005 cần quy định về hình thức thể hiện sự thỏa thuận
chọn luật áp dụng trong hợp đồng theo hướng: việc chọn lựa luật áp dụng
phải được thể hiện rõ ràng bằng các điều khoản trong hợp đồng và không
chấp nhận hình thức “thỏa thuận ngầm” trong việc lựa chọn luật áp dụng
vì các lý do sau: (i) sự hiểu biết về pháp luật nói chung, pháp luật dân
sự có YTNN của các chủ thể Việt Nam chưa cao, việc quy định rõ ràng
trong hợp đồng về luật áp dụng sẽ tránh cho các bên sự tranh chấp không
cần thiết; (ii) việc giải thích pháp luật tại Việt Nam chưa thống nhất
và chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, việc quy định rõ ràng trong
hợp đồng sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
tránh được khó khăn khi xác định ý chí của các bên trong việc giải thích
hợp đồng; (iii) phù hợp với truyền thống pháp luật thành văn của hệ
thống pháp luật Việt Nam khi mà trình độ lập pháp chưa được hoàn thiện
thì việc quy định cụ thể sẽ tốt hơn. Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng
cần quy định rõ nếu các bên không đáp ứng được yêu cầu này thì thỏa
thuận lựa chọn luật áp dụng sẽ không có hiệu lực pháp luật.
- Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn một hệ thống
pháp luật không có mối quan hệ thực chất với hợp đồng để áp dụng hay
không? Thực tế cho thấy, pháp luật mà các bên tham gia quan hệ hợp đồng
lựa chọn áp dụng là pháp luật có liên quan đến hợp đồng. Ví dụ: pháp
luật mà một trong các bên có quốc tịch. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường
hợp, các bên lựa chọn một hệ thống pháp luật không có liên quan gì đến
hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một
doanh nghiệp Đan Mạch, các bên có thỏa thuận “trong trường hợp nếu hợp
đồng không chỉ rõ thì luật thực chất của Pháp sẽ điều chỉnh” (Điều 13.2)5.
Về vấn đề này BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể. Tham khảo pháp luật
các nước chúng ta thấy, có nhiều cách giải quyết khác nhau. Pháp luật Mỹ
yêu cầu luật được lựa chọn phải có mối quan hệ thực chất với hợp đồng
trong khi Điều 2 Công ước Rome và Điều 2 Quy tắc Rome I không đòi hỏi
một mối liên hệ thực chất hay liên hệ khác với luật được lựa chọn6. Quan điểm này cũng được một số nhà nghiên cứu pháp luật Việt Nam thừa nhận7.
Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cũng cho thấy, các bên thường có
xu hướng lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối liên hệ thực chất
với hợp đồng hoặc lựa chọn tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh
quan hệ hợp đồng. Vì vậy, theo chúng tôi, BLDS 2005 cần quy định theo
hướng chấp nhận các bên được quyền lựa chọn một hệ thống pháp luật không
có mối liên hệ thực chất với hợp đồng để điều chỉnh hợp đồng vì các lý
do: (i) đảm bảo tôn trọng tối đa quyền tự thỏa thuận của các bên, đây là
một trong những nguyên tắc cơ bản của hợp đồng; (ii) việc cho thỏa
thuận lựa chọn pháp luật của nước thứ ba như một giải pháp trung gian sẽ
giúp cho các bên thực hiện hợp đồng dễ dàng hơn trong trường hợp bên
Việt Nam không muốn áp dụng luật của bên nước ngoài và bên nước ngoài
không muốn áp dụng luật Việt Nam; (iii) phù hợp với nguyên tắc các bên
được quyền thỏa thuận lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật áp dụng cho một
quan hệ hợp đồng như đã phân tích ở trên; (iv) phù hợp với thông lệ quốc
tế khi các bên còn được phép thỏa thuận lựa chọn tập quán thương mại
quốc tế hay những nguyên tắc của hợp đồng thương mại quốc tế đã được
thừa nhận rộng rãi (Ví dụ: Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương
mại quốc tế).
- Thỏa thuận lựa chọn áp dụng ĐƯQT. Trong thực tế, có
một số ĐƯQT mà Việt Nam chưa là thành viên. Ví dụ: Công ước Viên 1980
của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chẳng hạn. Vậy
các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn áp dụng cho hợp đồng hay không?
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu pháp luật Việt Nam khi xem xét
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, dường như pháp luật Việt
Nam, mặc dù không cấm, nhưng không quy định về quyền được thỏa thuận lựa
chọn một ĐƯQT mà Việt Nam chưa phải là thành viên để áp dụng cho HĐDS
có YTNN8. Cụ thể: khoản 4 Điều 759 BLDS 2005 quy định: “Trong
trường hợp quan hệ dân sự có YTNN không được Bộ luật này, các văn bản
pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ĐƯQT mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc HĐDS giữa các bên điều
chỉnh thì áp dụng…”. Phân tích câu chữ điều luật này rõ ràng chúng ta
thấy chỉ có thể áp dụng những ĐƯQT mà Việt Nam đã tham gia cho quan hệ
HĐDS có YTNN. Quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 cũng
tương tự. Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi, pháp luật Việt Nam hiện
hành chưa quy định cụ thể về vấn đề này và cách lý giải như trên là
thiếu thuyết phục. Hiện nay, không có văn bản pháp luật Việt Nam nào cấm
các bên lựa chọn những ĐƯQT mà Việt Nam chưa phải là thành viên áp dụng
cho HĐDS có YTNN. Ngược lại, cũng không có quy phạm nào thừa nhận rõ
ràng quyền lựa chọn của các bên về những ĐƯQT như vậy. Vì pháp luật
không cấm và cũng không thừa nhận rõ ràng nên phụ thuộc vào người áp
dụng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, BLDS 2005 nên quy định một cách rõ ràng
cho phép các bên lựa chọn những ĐƯQT như vậy để áp dụng cho hợp đồng.
Bởi vì: (i) những quy định của các ĐƯQT thường phù hợp với các quan hệ
dân sự có YTNN, trong khi đó, pháp luật quốc nội của một nước đôi khi
không phù hợp với loại quan hệ này; (ii) Việt Nam chưa có điều kiện gia
nhập nhiều ĐƯQT đa phương điều chỉnh quan hệ HĐDS có YTNN nên việc chỉ
cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn những điều ước mà Việt Nam là thành
viên sẽ hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên và quan trọng nhất
là cản trở giao lưu dân sự quốc tế.
- Về thuật ngữ pháp lý. Theo quy định của Điều 769
BLDS 2005: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định
theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận
khác”. Như vậy, phạm vi vấn đề các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn
luật áp dụng là “quyền và nghĩa vụ”. Cách quy định này của pháp luật
Việt Nam vô tình đã thu hẹp phạm vi thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của
các bên vì theo thông lệ chung của thế giới, các bên được quyền lựa
chọn luật áp dụng cho “nội dung của hợp đồng”, mà nội dung của hợp đồng
còn nhiều vấn đề khác ngoài quyền và nghĩa vụ của các bên. Tham khảo
Điều 12 Công ước La Haye 1986 chúng ta thấy, công ước đã liệt kê phạm vi
những vấn đề mà các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng ngoài
quyền và nghĩa vụ của các bên còn bao gồm vấn đề thời điểm chuyển rủi
ro, tính hợp pháp và hiệu lực pháp lý của các điều khoản hợp đồng về bảo
vệ quyền sở hữu đối với hàng hóa, hậu quả của việc không thực hiện hợp
đồng…9. Vì vậy, theo chúng tôi, pháp luật Việt Nam cần quy
định theo hướng pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng là pháp luật
của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Xuất phát từ các vấn đề đã phân tích ở trên, theo
chúng tôi, BLDS Việt Nam cần có một điều luật quy định cụ thể nội dung
thừa nhận quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho HĐDS có YTNN, theo
hướng sau: “Các bên tham gia quan hệ HĐDS có YTNN được quyền thỏa thuận
lựa chọn ĐƯQT, tập quán quốc tế hoặc pháp luật nước ngoài áp dụng cho
nội dung của HĐDS có YTNN. Trường hợp các bên thỏa thuận lựa chọn nhiều
luật áp dụng cho hợp đồng thì luật áp dụng là luật do các bên thống nhất
lựa chọn khi xảy ra tranh chấp. Trường hợp các bên không thống nhất lựa
chọn được, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ quyết định
lựa chọn trong số các hệ thống pháp luật các bên đã thỏa thuận.
Thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng được thể hiện dưới
hình thức văn bản hoặc một điều khoản của hợp đồng. Trường hợp thỏa
thuận lựa chọn không đáp ứng quy định về hình thức sẽ bị vô hiệu”.
Chú thích:
(1) Về vấn đề xác định cơ quan tài phán có thẩm
quyền xét xử dân sự quốc tế xin xem thêm: Bành Quốc Tuấn, Từ một quy
định về thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của
Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 24 (161), tháng 12/2009, tr. 44 –
tr.48. Nguyễn Bá Bình, Xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp và tính hợp pháp của việc chọn luật áp dụng đối với HĐDS có yếu tố
nước ngoài, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6, tháng 5/2008.
(2) Ví dụ: khoản 1 Điều 17 Luật người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định: “Hợp đồng cung
ứng lao động phải phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước
tiếp nhận lao động…”. Như vậy, Hợp đồng cung ứng lao động đồng thời chịu
sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận
lao động.
(3) Xem Nguyễn Thị Hồng Trinh, Nguyên tắc tự do
chọn luật cho hợp đồng từ Công ước Rome 1980 đến quy tắc Rome I và nhìn
về Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6(167), tháng 3/2010.
(4) Xem TS. Đỗ Văn Đại, TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb. CTQG, 2010, tr.583.
(5) Xem Nguyễn Trọng Đàn, Hợp đồng thương mại quốc tế, Hà Nội, 1997, tr.398.
(6) Xem Nguyễn Thị Hồng Trinh, tài liệu đã dẫn.
(7) Xem TS. Nguyễn Văn Luyện, TS. Lê Thị Bích
Thọ, TS. Dương Anh Sơn, Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb
Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh 2009, tr.37.
(8) Xem Nguyễn Bá Chiến, Quyền lựa chọn pháp luật
áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2006, tr. 72.
(9) Xem TS. Nguyễn Văn Luyện, TS. Lê Thị Bích Thọ, TS. Dương Anh Sơn, Sđd, tr.38.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment