Tuesday, October 22, 2013

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN THỎA THUẬN CHỌN LUẬT ÁP DỤNG CHO HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI


THS. BÀNH QUỐC TUẤN – Khoa Luật, Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Hợp đồng dân sự (HĐDS) có yếu tố nước ngoài (YTNN) là HĐDS có chủ thể nước ngoài tham gia; căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hợp đồng xảy ra ở nước ngoài hoặc theo pháp luật nước ngoài; tài sản liên quan đến hợp đồng nằm ở nước ngoài. Chính YTNN dẫn đến hiện tượng cùng một lúc có thể có nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh hợp đồng. Từ đó, việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng cũng như để bảo vệ lợi ích của các bên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, một trong những nguyên tắc quan trọng được pháp luật các nước cũng như các điều ước quốc tế (ĐƯQT) ghi nhận là các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận trong quan hệ hợp đồng, pháp luật các nước đều thừa nhận luật áp dụng cho nội dung HĐDS có YTNN trước tiên là luật do các bên tham gia quan hệ hợp đồng thỏa thuận lựa chọn. Dĩ nhiên, sự lựa chọn này phải đáp ứng những điều kiện do chính hệ thống pháp luật đó đặt ra. Nhìn vào các HĐDS có YTNN, đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc tế chúng ta thấy ngoài những nội dung cơ bản được ghi nhận tương tự với HĐDS trong nước như chủ thể, đối tượng, quyền và nghĩa vụ của các bên… còn xuất hiện điều khoản luật áp dụng (applicable law). Vận dụng nguyên tắc này, pháp luật Việt Nam đã quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho HĐDS có YTNN trong nhiều văn bản pháp luật: Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2 Điều 4); Luật Thương mại 2005 (khoản 2, khoản 3 Điều 4); Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (khoản 2, khoản 3 Điều 4). Đặc biệt, đoạn 1 khoản 1 Điều 769 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định rõ: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, cơ sở đầu tiên để xác định luật áp dụng cho quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Tuy nhiên, để có thể áp dụng điều khoản thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng, có hai vấn đề cần phải làm rõ là sự thỏa thuận lựa chọn luật này phải đáp ứng những điều kiện gì mới trở thành hợp pháp và căn cứ vào luật pháp nước nào để xác định những điều kiện này?
Trả lời câu hỏi thứ nhất liên quan đến việc xác định rõ phạm vi những vấn đề trong hợp đồng mà pháp luật cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng. Tư pháp quốc tế các nước trên thế giới đều xác định phạm vi những vấn đề mà các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng và như vậy, những vấn đề khác các bên không được phép thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật bắt buộc áp dụng cho HĐDS có YTNN đó. Như vậy, điều kiện thứ nhất để thỏa thuận chọn luật hợp pháp là sự lựa chọn phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Cụ thể, khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 chỉ cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; còn đối với vấn đề hình thức hợp đồng, các bên không được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng (Điều 770); hoặc vấn đề xác định nơi giao kết hợp đồng trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì phải tuân theo pháp luật của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 771).

Bên cạnh đó, quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên còn bị hạn chế hay nói cách khác, bị “tước bỏ”, ngay cả trong những vấn đề luật cho phép lựa chọn luật áp dụng. Cụ thể: đoạn 2 khoản 1 Điều 769 BLDS 2005 quy định nếu hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên cũng sẽ vô hiệu do điều khoản về bảo lưu trật tự công cộng như quy định tại Điều 759 BLDS 2005: “nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và một số văn bản pháp luật khác với cụm từ tương tự. Phân tích các quy định này cho thấy, dường như pháp luật Việt Nam có khuynh hướng giới hạn đến mức có thể phạm vi những vấn đề của HĐDS có YTNN mà các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng.
Trả lời câu hỏi thứ hai, căn cứ vào cơ sở pháp lý nào để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận chọn luật? Câu hỏi này liên quan đến một vấn đề cũng thuộc về pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng có YTNN là xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐDS có YTNN. Tranh chấp về HĐDS có YTNN có thể được giải quyết ở cơ quan tài phán nước này nhưng cũng có thể ở cơ quan tài phán nước khác1. Về nguyên tắc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐDS có YTNN sẽ áp dụng những quy định của pháp luật trong tư pháp quốc tế nước mình để giải quyết vụ việc. Như vậy, cơ sở để xác định tính hợp pháp của thỏa thuận chọn luật áp dụng, hay nói cách khác, cơ sở để xem xét luật được lựa chọn đã thỏa mãn điều kiện về chọn luật hay chưa chính là tư pháp quốc tế của nước có cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp phát sinh từ HĐDS có YTNN. Trở lại với những quy định về điều kiện chọn luật áp dụng của pháp luật Việt Nam vừa trình bày ở trên, rõ ràng những điều kiện này chỉ có thể được áp dụng xem xét tính hợp pháp của việc lựa chọn pháp luật khi vụ việc tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài phán Việt Nam. Tư pháp các nước trên thế giới đều thừa nhận nguyên tắc này.
Như vậy, về cơ bản, quy định của BLDS 2005 cho phép các bên tham gia quan hệ HĐDS có YTNN được thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Tuy nhiên, luật chỉ quy định rất chung “nếu không có thỏa thuận khác” mà không có thêm bất cứ sự quy định hay giải thích gì cụ thể nên trong thực tế vận dụng quy định này đã phát sinh nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
2. Vấn đề phát sinh từ thực tiễn xác định luật áp dụng trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài theo nguyên tắc thỏa thuận và đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật
Những năm gần đây, cùng với việc ngày càng tham gia sâu hơn vào các hoạt động kinh tế quốc tế thì những yêu cầu về xác định luật áp dụng đối với HĐDS có YTNN ở Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết, khi mà vai trò của loại hợp đồng này ngày càng trở nên quan trọng và những vấn đề có liên quan cũng như tranh chấp liên quan đến loại hợp đồng này ngày càng nhiều và phức tạp. Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho quyền và nghĩa vụ trong HĐDS có YTNN. Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn tiếp tục phải làm rõ về quy định này trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể:
- Các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng cho một phần của hợp đồng không? Nói cách khác, các bên có quyền lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng hay không? Thực tiễn cho thấy có những HĐDS có YTNN (ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) có nội dung rất dài và bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Chính vì vậy, đôi khi phát sinh nhu cầu thực tế là các bên cần thỏa thuận chọn nhiều hệ thống pháp luật và một hệ thống pháp luật chỉ áp dụng điều chỉnh một phần của hợp đồng. Thậm chí ngay cả khi thỏa thuận chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng vẫn có trường hợp các bên lựa chọn nhiều luật áp dụng cho hợp đồng để phòng ngừa tình huống một hệ thống pháp luật không điều chỉnh hết các vấn đề của hợp đồng. BLDS 2005 không có quy định về vấn đề này, nhưng một số văn bản pháp luật chuyên ngành lại quy định hợp đồng có thể được chi phối bởi hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau2. Tham khảo Công ước Rome 1980 về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng và Quy tắc Rome I, tại Điều 3 của cả hai văn bản đều quy định: “Bằng thỏa thuận của mình, các bên có thể chọn luật áp dụng cho toàn bộ hoặc chỉ một phần của hợp đồng”3. Tham khảo thực tiễn các nước cũng như Việt Nam cho thấy hiện tượng này thường xuyên xảy ra. Quan điểm này được các chuyên gia châu Âu về tư pháp quốc tế chấp nhận và đã được ghi nhận tại văn bản pháp luật của nhiều quốc gia4. Vì vậy, theo chúng tôi, BLDS 2005 cần quy định thống nhất về quyền của các bên được chọn luật áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ hợp đồng và quyền được lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật khác nhau áp dụng cho một quan hệ HĐDS có YTNN.
- Quy định về hình thức thể hiện sự thỏa thuận chọn luật áp dụng trong hợp đồng. Trong phần lớn trường hợp, các bên trong hợp đồng đều thể hiện rõ ràng ý chí của mình về việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, các bên không thể hiện rõ ràng ý chí của mình hoặc quy định theo kiểu “thỏa thuận ngầm” thì khi xảy ra tranh chấp việc xác định luật áp dụng giải quyết là rất phức tạp. Điều 769 BLDS không quy định về hình thức thể hiện của điều khoản chọn luật cho hợp đồng. Tham khảo Công ước Rome 1980 và Quy tắc Rome I chúng ta thấy đều có quy định thỏa thuận chọn luật phải được thể hiện hoặc chứng tỏ một cách chắc chắn bằng các điều khoản của hợp đồng hoặc hoàn cảnh của vụ việc. Tương tự, Điều 2 Công ước La Haye 1955 về luật áp dụng cho mua bán hàng hóa quốc tế quy định ý chí của các bên về luật áp dụng phải được thực hiện một cách trực tiếp hay xuất phát từ quy định của hợp đồng một cách cụ thể; Điều 7 Công ước La Haye 1986 về luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng phải được thể hiện rõ ràng hay xuất phát trực tiếp từ điều kiện của hợp đồng và cách xử sự của các bên được xem xét trong tổng thể.
Xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, theo chúng tôi, BLDS 2005 cần quy định về hình thức thể hiện sự thỏa thuận chọn luật áp dụng trong hợp đồng theo hướng: việc chọn lựa luật áp dụng phải được thể hiện rõ ràng bằng các điều khoản trong hợp đồng và không chấp nhận hình thức “thỏa thuận ngầm” trong việc lựa chọn luật áp dụng vì các lý do sau: (i) sự hiểu biết về pháp luật nói chung, pháp luật dân sự có YTNN của các chủ thể Việt Nam chưa cao, việc quy định rõ ràng trong hợp đồng về luật áp dụng sẽ tránh cho các bên sự tranh chấp không cần thiết; (ii) việc giải thích pháp luật tại Việt Nam chưa thống nhất và chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Vì vậy, việc quy định rõ ràng trong hợp đồng sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tránh được khó khăn khi xác định ý chí của các bên trong việc giải thích hợp đồng; (iii) phù hợp với truyền thống pháp luật thành văn của hệ thống pháp luật Việt Nam khi mà trình độ lập pháp chưa được hoàn thiện thì việc quy định cụ thể sẽ tốt hơn. Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng cần quy định rõ nếu các bên không đáp ứng được yêu cầu này thì thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng sẽ không có hiệu lực pháp luật.
- Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối quan hệ thực chất với hợp đồng để áp dụng hay không? Thực tế cho thấy, pháp luật mà các bên tham gia quan hệ hợp đồng lựa chọn áp dụng là pháp luật có liên quan đến hợp đồng. Ví dụ: pháp luật mà một trong các bên có quốc tịch. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, các bên lựa chọn một hệ thống pháp luật không có liên quan gì đến hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Đan Mạch, các bên có thỏa thuận “trong trường hợp nếu hợp đồng không chỉ rõ thì luật thực chất của Pháp sẽ điều chỉnh” (Điều 13.2)5. Về vấn đề này BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể. Tham khảo pháp luật các nước chúng ta thấy, có nhiều cách giải quyết khác nhau. Pháp luật Mỹ yêu cầu luật được lựa chọn phải có mối quan hệ thực chất với hợp đồng trong khi Điều 2 Công ước Rome và Điều 2 Quy tắc Rome I không đòi hỏi một mối liên hệ thực chất hay liên hệ khác với luật được lựa chọn6. Quan điểm này cũng được một số nhà nghiên cứu pháp luật Việt Nam thừa nhận7. Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cũng cho thấy, các bên thường có xu hướng lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối liên hệ thực chất với hợp đồng hoặc lựa chọn tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Vì vậy, theo chúng tôi, BLDS 2005 cần quy định theo hướng chấp nhận các bên được quyền lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối liên hệ thực chất với hợp đồng để điều chỉnh hợp đồng vì các lý do: (i) đảm bảo tôn trọng tối đa quyền tự thỏa thuận của các bên, đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hợp đồng; (ii) việc cho thỏa thuận lựa chọn pháp luật của nước thứ ba như một giải pháp trung gian sẽ giúp cho các bên thực hiện hợp đồng dễ dàng hơn trong trường hợp bên Việt Nam không muốn áp dụng luật của bên nước ngoài và bên nước ngoài không muốn áp dụng luật Việt Nam; (iii) phù hợp với nguyên tắc các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật áp dụng cho một quan hệ hợp đồng như đã phân tích ở trên; (iv) phù hợp với thông lệ quốc tế khi các bên còn được phép thỏa thuận lựa chọn tập quán thương mại quốc tế hay những nguyên tắc của hợp đồng thương mại quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi (Ví dụ: Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế).
- Thỏa thuận lựa chọn áp dụng ĐƯQT. Trong thực tế, có một số ĐƯQT mà Việt Nam chưa là thành viên. Ví dụ: Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chẳng hạn. Vậy các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn áp dụng cho hợp đồng hay không? Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu pháp luật Việt Nam khi xem xét các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, dường như pháp luật Việt Nam, mặc dù không cấm, nhưng không quy định về quyền được thỏa thuận lựa chọn một ĐƯQT mà Việt Nam chưa phải là thành viên để áp dụng cho HĐDS có YTNN8. Cụ thể: khoản 4 Điều 759 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp quan hệ dân sự có YTNN không được Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ĐƯQT mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc HĐDS giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng…”. Phân tích câu chữ điều luật này rõ ràng chúng ta thấy chỉ có thể áp dụng những ĐƯQT mà Việt Nam đã tham gia cho quan hệ HĐDS có YTNN. Quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 cũng tương tự. Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định cụ thể về vấn đề này và cách lý giải như trên là thiếu thuyết phục. Hiện nay, không có văn bản pháp luật Việt Nam nào cấm các bên lựa chọn những ĐƯQT mà Việt Nam chưa phải là thành viên áp dụng cho HĐDS có YTNN. Ngược lại, cũng không có quy phạm nào thừa nhận rõ ràng quyền lựa chọn của các bên về những ĐƯQT như vậy. Vì pháp luật không cấm và cũng không thừa nhận rõ ràng nên phụ thuộc vào người áp dụng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, BLDS 2005 nên quy định một cách rõ ràng cho phép các bên lựa chọn những ĐƯQT như vậy để áp dụng cho hợp đồng. Bởi vì: (i) những quy định của các ĐƯQT thường phù hợp với các quan hệ dân sự có YTNN, trong khi đó, pháp luật quốc nội của một nước đôi khi không phù hợp với loại quan hệ này; (ii) Việt Nam chưa có điều kiện gia nhập nhiều ĐƯQT đa phương điều chỉnh quan hệ HĐDS có YTNN nên việc chỉ cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn những điều ước mà Việt Nam là thành viên sẽ hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên và quan trọng nhất là cản trở giao lưu dân sự quốc tế.
- Về thuật ngữ pháp lý. Theo quy định của Điều 769 BLDS 2005: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, phạm vi vấn đề các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng là “quyền và nghĩa vụ”. Cách quy định này của pháp luật Việt Nam vô tình đã thu hẹp phạm vi thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên vì theo thông lệ chung của thế giới, các bên được quyền lựa chọn luật áp dụng cho “nội dung của hợp đồng”, mà nội dung của hợp đồng còn nhiều vấn đề khác ngoài quyền và nghĩa vụ của các bên. Tham khảo Điều 12 Công ước La Haye 1986 chúng ta thấy, công ước đã liệt kê phạm vi những vấn đề mà các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng ngoài quyền và nghĩa vụ của các bên còn bao gồm vấn đề thời điểm chuyển rủi ro, tính hợp pháp và hiệu lực pháp lý của các điều khoản hợp đồng về bảo vệ quyền sở hữu đối với hàng hóa, hậu quả của việc không thực hiện hợp đồng…9. Vì vậy, theo chúng tôi, pháp luật Việt Nam cần quy định theo hướng pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng là pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Xuất phát từ các vấn đề đã phân tích ở trên, theo chúng tôi, BLDS Việt Nam cần có một điều luật quy định cụ thể nội dung thừa nhận quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho HĐDS có YTNN, theo hướng sau: “Các bên tham gia quan hệ HĐDS có YTNN được quyền thỏa thuận lựa chọn ĐƯQT, tập quán quốc tế hoặc pháp luật nước ngoài áp dụng cho nội dung của HĐDS có YTNN. Trường hợp các bên thỏa thuận lựa chọn nhiều luật áp dụng cho hợp đồng thì luật áp dụng là luật do các bên thống nhất lựa chọn khi xảy ra tranh chấp. Trường hợp các bên không thống nhất lựa chọn được, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ quyết định lựa chọn trong số các hệ thống pháp luật các bên đã thỏa thuận.
Thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc một điều khoản của hợp đồng. Trường hợp thỏa thuận lựa chọn không đáp ứng quy định về hình thức sẽ bị vô hiệu”.
Chú thích:
(1) Về vấn đề xác định cơ quan tài phán có thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế xin xem thêm: Bành Quốc Tuấn, Từ một quy định về thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 24 (161), tháng 12/2009, tr. 44 – tr.48. Nguyễn Bá Bình, Xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và tính hợp pháp của việc chọn luật áp dụng đối với HĐDS có yếu tố nước ngoài, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6, tháng 5/2008.
(2) Ví dụ: khoản 1 Điều 17 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định: “Hợp đồng cung ứng lao động phải phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận lao động…”. Như vậy, Hợp đồng cung ứng lao động đồng thời chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động.
(3) Xem Nguyễn Thị Hồng Trinh, Nguyên tắc tự do chọn luật cho hợp đồng từ Công ước Rome 1980 đến quy tắc Rome I và nhìn về Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6(167), tháng 3/2010.
(4) Xem TS. Đỗ Văn Đại, TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb. CTQG, 2010, tr.583.
(5) Xem Nguyễn Trọng Đàn, Hợp đồng thương mại quốc tế, Hà Nội, 1997, tr.398.
(6) Xem Nguyễn Thị Hồng Trinh, tài liệu đã dẫn.
(7) Xem TS. Nguyễn Văn Luyện, TS. Lê Thị Bích Thọ, TS. Dương Anh Sơn, Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh 2009, tr.37.
(8) Xem Nguyễn Bá Chiến, Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2006, tr. 72.
(9) Xem TS. Nguyễn Văn Luyện, TS. Lê Thị Bích Thọ, TS. Dương Anh Sơn, Sđd, tr.38.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code