HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ
Dân cư là một trong
những bộ phận cấu thành nên một quốc gia. Dân cư của một quốc gia không
chỉ bao gồm công dân của nước đó mà còn có người có quốc tịch nước
ngoài, người có hai hay nhiều quốc tịch và người không quốc tịch. Sở dĩ
có tình trạng công dân của một nước này lại làm ăn, sinh sống ở một nước
khác là do có hiện tượng di dân. Di dân không phải là một hiện tượng
ngẫu nhiên mà là sản phẩm của đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, chính
trị, văn hoá trong từng thời đại. Ngày nay, di dân thế giới là hệ quả
của quá trình toàn cầu hoá.
Dòng người Việt Nam di cư ra nước ngoài cũng không
nằm ngoài quy luật ấy. Người Việt Nam ra nước ngoài định cư từ rất sớm
(khoảng từ thế kỷ thứ XIII) do nhiều nguyên nhân khác nhau, cư trú ở
những địa bàn khác nhau về địa lý và chính trị. Từ đó đã tạo nên cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài đa dạng và phức tạp.
Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì vấn
đề quốc tịch hết sức quan trọng. Việc họ còn hay không còn giữ quốc tịch
Việt Nam cũng như đã được nhập quốc tịch nước ngoài hay chưa có ảnh
hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý của họ.
I. Khái quát tình hình người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo giải thích
từ ngữ tại Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam là “công dân Việt Nam và người
gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Như vậy, cộng
đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm cả công dân Việt Nam
(những người còn quốc tịch Việt Nam) và người gốc Việt Nam (người đã
từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định
theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ). Hiện nay, có khoảng
3,4 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cư trú ở gần 90 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó tập trung chủ yếu ở 21 nước
thuộc các khu vực: Bắc Mỹ, Tây Bắc Âu, Nga và Đông Âu, Đông Nam Á, Đông
Bắc Á và châu Úc. Một số khu vực khác như Nam và Tây Á, Trung Đông, Châu
Phi và Nam Mỹ tuy cũng có người Việt làm ăn, sinh sống song số lượng
rất ít.
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban về người Việt
Nam ở nước ngoài, khoảng 80% người Việt Nam đang làm ăn, sinh sống tại
các nước phát triển, trong đó tập trung đông nhất là ở Mỹ (1,5 triệu
người), Pháp (300.000 người), Canada (250.000 người), Úc (245.000người).
Ở các nước Đông Âu (Nga), các nước châu Á (Campuchia, Thái Lan) mỗi
nước có khoảng 100.000 người Việt làm ăn, sinh sống.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, đặc biệt là từ
những năm 2000, do chính sách mở cửa của Nhà nước ta trong quan hệ đối
ngoại cũng như do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá, số người Việt
Nam ra nước ngoài định cư ngày càng đông. Họ ra nước ngoài để đoàn tụ
gia đình hoặc làm ăn, kinh doanh, đi du học rồi ở lại. Cũng có nhiều
trường hợp kết hôn với công dân nước ngoài rồi theo chồng ra nước ngoài
định cư.
Tuy sống xa Tổ quốc nhưng cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó với gia đình, quê hương, có
tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, có ý thức giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Nhiều người đã đóng góp về tinh thần, vật chất và
cả xương máu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng
như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy thế, trong số
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng có một số ít người còn có
thành kiến hoặc những hành động đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc,
ra sức chống phá đất nước. Nhưng nhìn chung, cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài luôn hướng về đất nước với tinh thần của những đứa
con sống xa Tổ quốc. Họ thường xuyên giữ mối quan hệ với thân nhân trong
nước, càng ngày càng có nhiều người về thăm thân nhân, đi du lịch hoặc
hồi hương về Việt Nam.
Về mặt kinh tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
có tiềm lực kinh tế nhất định mặc dù họ còn gặp phải những khó khăn do
phải cạnh tranh với người dân nước sở tại. Trong số những người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đã có những doanh nghiệp Việt Nam rất thành đạt,
uy tín của người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng được nâng cao.
Cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng là
một cộng đồng có tiềm năng về chất xám. Hiện nay, nhiều người Việt Nam ở
nước ngoài có trình độ Đại học, trên Đại học, chuyên gia kỹ thuật có
tay nghề cao. Với truyền thống hiếu học của dân tộc, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài nhất là người thuộc thế hệ thứ 3, 4 được đào tạo ở bậc
cao, làm cho đội ngũ trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng
tăng.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà, Nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về
quốc tịch. Tuy nhiên, ngày 28/6/1988, Luật quốc tịch Việt Nam đầu tiên
mới được thông qua. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 lần đầu tiên đã
chính thức “luật hoá” mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân bằng quy
định tại Điều 2: “Công dân Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Nhà nước
bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài”. “Quyền
lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài” được quy định chi
tiết tại Điều 1 Nghị định số 37/HĐBT ngày 05/02/1990 quy định chi tiết
thi hành Luật quốc tịch Việt Nam. Theo đó, “Quyền lợi chính đáng của
công dân Việt Nam ở nước ngoài theo quy định tại Điều 2 Luật quốc tịch
là những quyền lợi được pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia ký kết bảo đảm và những quyền lợi khác theo pháp luật
và tập quán quốc tế, nếu việc hưởng những quyền lợi ấy không trái với
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Các quy định của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 và
các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ của
Nhà nước Việt Nam đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, phù hợp với
chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn đó.
Xuất phát từ những đòi hỏi về mặt pháp lý và thực
tiễn, ngày 20/5/1998 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 thay thế Luật quốc tịch Việt
Nam năm 1988. Liên quan đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài, Luật
quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: “Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền
lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài”, khác với Luật quốc tịch
năm 1988 chỉ quy định việc bảo hộ đối với “công dân Việt Nam ở nước
ngoài”. Như vậy, phạm vi bảo hộ của nhà nước Việt Nam đã được mở rộng.
Nhà nước Việt Nam sẽ bảo hộ không những đối với người có quốc tịch Việt
Nam (công dân Việt Nam) mà còn bảo hộ cả với những người gốc Việt Nam ở
nước ngoài. Quy định này đã khiến cho cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Sau hơn 9 năm thực hiện, Luật quốc tịch Việt Nam năm
1998 đã phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong vấn đề quản
lý quốc tịch. Tuy nhiên, Luật năm 1998 cũng bộc lộ một số điểm hạn chế,
bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung. Chính vì vậy, ngày 13 tháng 11 năm
2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
thay thế Luật quốc tịch năm 1998. Luật quốc tịch năm 2008 so với Luật
năm 1998 có nhiều điểm mới, riêng đối với quy định liên quan đến người
Việt Nam ở nước ngoài, Luật quốc tịch năm 2008 ngoài việc kế thừa các
quy định trước đó về quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo hộ đối với
công dân Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với người gốc Việt Nam ở
nước ngoài còn bổ sung quy định mới về quyền và nghĩa vụ của công dân
Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài.
Theo đó, “quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch
nước ngoài đang định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của
pháp luật có liên quan”. Đặc biệt, tại Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008,
lần đầu tiên vấn đề quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
đã được khẳng định rõ tại khoản 2 Điều 13: “Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật
Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam
và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký
với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam”.
Quy định này phù hợp với nguyện vọng của đông đảo người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, tạo tâm lý phấn khởi và yên tâm cho họ.
Có thể thấy rằng, những quy định tại Luật quốc tịch
Việt Nam năm 2008 liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài đã thể hiện
rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay, luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không
thể tách rời của dân tộc Việt Nam.
III. Thực trạng quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1. Thực trạng quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Trong số hơn 3,4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài
hiện nay có khoảng 80% người Việt sống ở các nước công nghiệp phát triển
và khoảng 70-80% số đó được nhập quốc tịch nước sở tại. Tình hình quốc
tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể được xem xét theo
các khu vực: các nước Đông Âu, các nước châu Á và các nước phương Tây.
Ở các nước Đông Âu: cộng đồng người Việt Nam ở
các nước Đông Âu được hình thành chủ yếu vào cuối những năm 80, đầu
những năm 90 của thế kỷ 20. Hầu hết họ sang Đông Âu để làm việc, học tập
rồi ở lại hoặc một số khác thì đi theo con đường du lịch, thăm thân
nhân. Họ ra đi hợp pháp nhưng sau đó ở lại quá hạn và trở thành cư trú
bất hợp pháp. Do những nguyên nhân khác nhau như bị mất giấy tờ, không
được cấp giấy tạm trú, không được phép đăng ký cư trú nên hiện có khoảng
80% người Việt Nam ở các nước này không có quy chế định cư hoặc giấy tờ
hợp pháp. Trong số còn lại có quy chế định cư và giấy tờ hợp pháp thì
cũng chỉ có một số ít là có quốc tịch của nước sở tại. Chính điều này đã
khiến cho cuộc sống của họ không ổn định và gặp nhiều khó khăn.
Ở các nước châu Á: Các nước thuộc khu vực Đông
Nam Á (Lào, Campuchia, Thái Lan) là những nước làng giềng lân cận với
Việt Nam, do đó có khá đông người Việt Nam sang định cư tại các nước
này. Hiện nay, số lượng người Việt Nam ở các nước này là 163.690
người[1]. Do chính sách của các nước sở tại đối với người nước ngoài
không giống nhau nên địa vị pháp lý của người Việt Nam ở từng nước đó
cũng khác nhau. Chẳng hạn ở Lào, do được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều
kiện của Chính phủ Lào nên cộng đồng người Việt ở Lào đã ổn định cuộc
sống, được hưởng quy chế cư trú và hơn nửa trong số đó đã được nhập quốc
tịch Lào. Trong khi đó, tại Campuchia, địa vị pháp lý của người Việt
Nam không rõ ràng, phần lớn không có giấy tờ tuỳ thân hợp pháp, chỉ có
một số lượng ít người Việt có quốc tịch Campuchia. Chính vì vậy, cuộc
sống của họ gặp rất nhiều khó khăn. Còn tại Thái Lan, theo thống kê của
nhà chức trách Thái Lan năm 1997, người Việt tại đây có khoảng 43.690
người trong đó có 26.423 người đã được cấp giấy tờ định cư hoặc được
nhập quốc tịch Thái Lan. Chính phủ Thái Lan có một số chính sách cởi mở,
do đó, cuộc sống của người Việt ở Thái Lan ổn định hơn.
Tại một số nước khác thuộc khu vực châu Á như Hàn
Quốc, Trung Quốc (Đài Loan) cũng có khá đông người Việt định cư. Phần
lớn trong số này là các cô dâu Việt lấy chồng người Hàn Quốc hoặc Đài
Loan rồi theo chồng về nước định cư.
Tại Đài Loan, hiện nay cộng đồng người Việt đã có hơn
100 nghìn người sinh sống, trong đó số người là các cô dâu Việt đến
bằng con đường kết hôn chiếm hơn 70%. Chỉ tính từ năm 1995 đến cuối năm
2004, Việt Nam đã có khoảng 85.000 phụ nữ kết hôn với đàn ông Đài Loan.
So với số lượng kết hôn năm 1998, từ năm 2000 đến nay tỷ lệ luôn tăng
hơn 100%, cao nhất là năm 2002 (so với năm 1998) là 172%, với số lượng
là 13.743 người đã kết hôn[2]. Hầu hết các cô dâu Việt Nam khi sang Đài
Loan theo chồng đều có nguyện vọng muốn nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài
Loan) theo chồng. Vì vậy, hàng năm số lượng công dân Việt Nam ở Đài Loan
xin thôi quốc tịch Việt Nam là rất lớn, năm 2005 là 9.200 người, năm
2006 là 6.000 người, năm 2007 là 11.398 người và năm 2008 là 4.200
người[3]. Số này sau khi xin thôi quốc tịch Việt Nam hầu hết sẽ được
nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan). Nhưng cũng có khá nhiều trường hợp
đã xin thôi quốc tịch Việt Nam song lại có mâu thuẫn gia đình dẫn đến
ly hôn hoặc do người chồng chết, thẻ cư trú hết hạn nên không được nhập
quốc tịch nước sở tại. Từ đó dẫn đến việc họ rơi vào tình trạng không
quốc tịch, gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống ở đó. Nhiều người
trong số họ đã trở về Việt Nam bằng Giấy thông hành do Văn phòng Kinh tế
– Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc cấp. Tuy nhiên, cuộc sống của họ ở Việt
Nam cũng có nhiều khó khăn do họ không còn là công dân Việt Nam, không
có giấy tờ tuỳ thân.
Cùng với Đài Loan, Hàn Quốc cũng là một quốc gia có
khá đông các cô dâu Việt Nam sinh sống. Theo thống kê của Cục thống kê
Hàn Quốc, trong 5 năm (từ năm 2001 đến 2005) đã có 10.279 cô dâu Việt
Nam kết hôn với đàn ông Hàn Quốc[4]. Đa số cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn
Quốc sau khi theo chồng ra nước ngoài định cư đều muốn xin thôi quốc
tịch Việt Nam để nhập quốc tịch theo chồng. Đến nay, số cô dâu Việt Nam
tại Hàn Quốc xin thôi quốc tịch Việt Nam năm 2007 là 273 trường hợp, năm
2008 là 543 trường hợp[5].
Ở các nước phương Tây: Cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài tại các nước tư bản phát triển chiếm số lượng lớn nhất,
khoảng 4/5 tổng số người Việt Nam ở nước ngoài trên toàn thế giới.
Người Việt Nam ở khu vực này phần đông đã có quốc tịch nước sở tại
(70-80%) do thủ tục xin nhập quốc tịch các nước này ít phức tạp, không
đòi hỏi phải xin thôi quốc tịch gốc, chỉ cần đáp ứng các tiêu chuẩn theo
luật nhập cư là có thể được nhập tịch (ví dụ: Mỹ, Pháp…). Riêng đối với
Cộng hoà liên bang Đức, pháp luật về quốc tịch của Đức quy định người
nước ngoài muốn nhập quốc tịch Đức thì phải thôi quốc tịch mà họ đang
có. Do đó, hàng năm, số người Việt Nam định cư ở Đức xin thôi quốc tịch
Việt Nam khá nhiều, năm 2005 là 933 trường hợp, năm 2006 là 886 trường
hợp, năm 2007 là 862 trường hợp, năm 2008 là 1.097 trường hợp[6].
Như vậy, ngoại trừ số người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đã xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước sở tại thì
hiện nay, còn nhiều người vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch
nước ngoài. Việc họ vẫn còn quốc tịch Việt Nam khi đã được nhập quốc
tịch nước ngoài là do nước mà họ định cư công nhận 2 quốc tịch hoặc chấp
nhận 2 quốc tịch trên thực tế. Trong khi đó, trong cộng đồng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài này vẫn có một bộ phận chỉ có quốc tịch Việt
Nam mà chưa được nhập quốc tịch nước sở tại. Số này chủ yếu sống ở Nga,
các nước Đông Âu và những người ra đi hợp pháp đang định cư ở các nước
phương Tây. Hầu hết họ đã được Việt Nam cấp đổi hộ chiếu trừ những người
vượt biên hoặc ra đi bất hợp pháp. Những người này đã được nước sở tại
cấp giấy chứng nhận quy chế ngoại kiều, giấy thông hành tỵ nạn…Đến nay,
một số người không có giấy tờ gì, sống bất hợp pháp hoặc rơi vào tình
trạng không quốc tịch, nhất là ở Nga và các nước Đông Âu. Bên cạnh đó,
cũng có một bộ phận đã xin thôi quốc tịch Việt Nam để được gia nhập quốc
tịch của nước sở tại như: Lào, Séc, Hàn Quốc, Trung Quốc (Đài Loan),
Đức…
2. Nguyện vọng của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài về vấn đề quốc tịch.
Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, vấn đề
quốc tịch có ý nghĩa hết sức quan trọng. Phần đông cộng đồng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mong muốn Nhà nước Việt Nam công nhận quy chế
hai hay nhiều quốc tịch, nghĩa là vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc
tịch nước ngoài. Ngoại trừ thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba mặc nhiên có
quốc tịch nước ngoài do sinh ra, còn lại họ mong muốn được nhập quốc
tịch nước ngoài vì những vấn đề liên quan trực tiếp tới lợi ích của bản
thân họ như để được hưởng quy chế cư trú dài hạn, có hộ chiếu nước
ngoài, được hưởng các quyền lợi như công dân nước sở tại về việc làm,
bảo hiểm, trợ cấp xã hội, việc học hành của con cái…Nhưng đồng thời họ
cũng không muốn từ bỏ quốc tịch Việt Nam vì họ muốn giữ mối liên hệ chặt
chẽ với đất nước Việt Nam. Việc còn hay không còn giữ quốc tịch Việt
Nam cũng ảnh hưởng trực tiếp tới một số quyền lợi của họ như vấn đề xuất
nhập cảnh, cư trú, hồi hương…Đặc biệt, ngày 18/6/2009, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của
Luật Đất đai. Theo đó, nếu người Việt Nam định cư ở nước ngoài được cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng
trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong
gia đình sinh sống tại Việt Nam; Người gốc Việt Nam được cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt
Nam từ 3 tháng trở lên thì có quyền sở hữu một căn hộ riêng lẻ hoặc một
căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia
đình sinh sống tại Việt Nam. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã và đang được
sửa đổi theo hướng chú trọng đến việc mở rộng việc hưởng các quyền lợi
cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Chính điều này khiến cho việc
có quốc tịch Việt Nam càng có ý nghĩa đối với cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và tuy sống xa Tổ quốc nhưng họ thực sự mong muốn
vẫn là công dân Việt Nam một cách chính thức trên phương diện pháp lý.
Khoản 2 Điều 13 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định về việc “người
Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam…thì vẫn
còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có
hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để
đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam” xuất phát từ chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng như xu hướng hội
nhập hiện nay. Việc khẳng định người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà
chưa mất quốc tịch Việt Nam thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam là quyền lợi
của họ, nhưng để được hưởng quyền lợi này, họ phải thực hiện nghĩa vụ
đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng gắn bó với quê hương, đất
nước.
Đối với những người Việt Nam định cư ở các nước mà
pháp luật các nước này có quy định nếu muốn xin nhập quốc tịch nước họ
thì phải xin thôi quốc tịch gốc (Đức, Lào, Trung Quốc (Đài Loan)…) luôn
có nguyện vọng pháp luật Việt Nam về quốc tịch sẽ có những cải cách, rút
ngắn thời gian giải quyết việc thôi quốc tịch Việt Nam để thuận tiện
cho họ. Với những quy định thực sự mang tính cải cách hành chính về
trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch trong Luật quốc tịch
Việt Nam năm 2008 chắc chắn sẽ đáp ứng được phần lớn nguyện vọng của
cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Qua phân tích ở trên cho thấy, trong những năm qua,
vấn đề quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài là vấn đề phức
tạp, luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng này. Trước khi
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có hiệu lực, việc xác định quốc tịch
cho những người này chưa được quy định rõ ràng. Chính vì vậy, có nhiều
người cũng không khẳng định được là mình có còn quốc tịch Việt Nam trên
phương diện pháp lý hay không, nhất là các thế hệ thứ 2, thứ 3. Luật
quốc tịch Việt Nam năm 2008 ra đời với quy định tại khoản 2 Điều 13 đã
khắc phục được tình trạng này, khiến bà con phấn khởi, yên tâm và ngày
càng hướng về đất nước Việt Nam với tình cảm đặc biệt của những người
con đang ở xa Tổ quốc. Các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và
các quy định của pháp luật về quốc tịch nói riêng đã khẳng định rõ chính
sách của Đảng và Nhà nước ta “luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam”./.
4. Vấn đề người không quốc tịch ở Việt Nam và hướng giải quyết
a. Thực trạng về người không quốc tịch ở Việt Nam
Theo quan niệm quốc tế, tình trạng không quốc tịch có 2 dạng chính: người không quốc tịch theo luật (du jure)
nghĩa là một người không xin được xác nhận quốc tịch hoặc không được
coi là công dân của một nước theo quy định của luật pháp nước đó và người không quốc tịch từ thực tế (de factor) nghĩa là một người không thể có bất cứ giấy tờ gì để chứng minh quốc tịch của mình.
Khoản 2 Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 đã giải thích cụm từ “người không quốc tịch”
là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước
ngoài. Thuật ngữ này vẫn tiếp tục được sử dụng lại tại khoản 2 Điều 3
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Quan điểm và chính sách của Nhà nước
ta về hạn chế tình trạng không quốc tịch được thể hiện tại Điều 8 Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc
tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam được nhập quốc
tịch Việt Nam theo quy định của Luật này”.
Trong những năm qua, Bộ Tư pháp chủ động, tích cực
trong việc giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về quốc tịch, phối
hợp với các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài, Uỷ ban nhân dân và Sở Tư pháp của các tỉnh, thành phố trực
trung ương thụ lý, xem xét, giải quyết một khối lượng rất lớn hồ sơ xin
nhập, xin thôi, xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, việc giải
quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam trong nhiều năm qua chưa đáp ứng
được nhu cầu của người dân, số lượng người nước ngoài, đặc biệt là số
người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam là quá ít. Tính từ
tháng 01 năm 1999 đến tháng 12 năm 2008, Bộ Tư pháp đã làm thủ tục trình
Chủ tịch nước cho phép 296 trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam,
trong số đó chủ yếu là người Hoa hiện đang sinh sống tập trung tại thành
phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam và người Campuchia tị nạn; số
lượng người không quốc tịch sống ổn định từ nhiều năm trên lãnh thổ Việt
Nam được nhập quốc tịch Việt Nam là rất hạn chế.
Người không quốc tịch cư trú trên lãnh thổ
Việt Nam vẫn còn tồn đọng từ nhiều năm nay. Theo nghiên cứu và báo cáo
của các địa phương, có thể khái quát nguời không quốc tịch ở Việt Nam
thành 2 nhóm cơ bản là những người tị nạn, người di cư tự do từ Campuchia đến sinh sống tại các tỉnh phía Nam và những người từ Lào di cư tự do sang Việt Nam sống dọc 10 tỉnh biên giới phía Tây.
Ngoài ra còn có những người không quốc tịch từ Trung quốc di cư sang
Việt Nam sống tại các tỉnh biên giới phía Bắc và một số người đã được
thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vì nhiều lý
do khác nhau họ không nhập được quốc tịch của nước đó, nay họ đang rơi
vào tình trạng không quốc tịch, về Việt Nam sinh sống (trở về từ Hàn
Quốc, Đài Loan, Đức, Tiệp…).
Những người tị nạn và di cư tự do từ Cam pu chia đến sinh sống tại các tỉnh phía Nam:
Theo thống kê của các Sở Tư pháp các tỉnh phía Nam,
từ những năm 1970 đến năm 1983 có hàng chục nghìn Việt kiều từ
Campuchia, phụ nữ Campuchia lấy chồng là bộ đội Việt Nam và khoảng
125.000 người Campuchia tị nạn sang Việt Nam, tập trung chủ yếu tại một
số địa phương như: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, An
Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh v.v… Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo các địa
phương, cùng với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) đã thành
lập một số trại ở một số tỉnh phía Nam để quản lý và giúp đỡ số người
lánh nạn này. Sau khi Pol Pốt bị lật đổ, với sự hỗ trợ của UNHCR, Chính
phủ Việt Nam đã trao đổi với Chính phủ Campuchia thu xếp cho đa số người
tị nạn nêu trên hồi hương về Campuchia, đồng thời một số được thu xếp
cho đi tái định cư ở nước thứ ba. Số còn lại khoảng 10.000 người chủ yếu
là người gốc Việt Nam và gốc Hoa vì không thể thu xếp đi định cư ở nước
thứ ba nên họ đã ở lại Việt Nam làm ăn, sinh sống.
Trong số người Campuchia tị nạn này, có rất ít người
có thể xuất trình được giấy tờ chứng minh quốc tịch Campuchia, còn hầu
hết đều khồng có bất cứ một loại giấy tờ pháp lý gì để chứng minh quốc
tịch Campuchia hoặc quốc tịch nước khác. Hiện tại quốc tịch của họ chỉ
được xác định dựa trên cơ sở giấy thường trú của người nước ngoài do cơ
quan công an cấp và các tài liệu tị nạn ghi lại lời khai là có quốc tịch
Campuchia (kể cả người Hoa, người Đài Loan cũng khai là có quốc tịch
Campuchia, đăng ký tại các trại tỵ nạn để được hưởng trợ cấp của cơ quan
Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn. Có không ít trường hợp người tị
nạn có bố, mẹ, vợ, chồng là công dân Việt Nam. Hầu hết những người trong
số họ đều đã có công ăn việc làm, giao tiếp bình thường bằng tiếng
Việt, chấp hành tốt pháp luật Việt Nam, họ đều có nguyện vọng xin nhập
quốc tịch Việt Nam để ổn định, yên tâm, làm ăn sinh sống lâu dài tại
Việt Nam.
Người không quốc tịch từ Lào di cư tự do sang Việt Nam: Vấn
đề người Lào, người Lào gốc Việt di cư tự do sang cư trú ở các tỉnh có
biên giới với Lào đã tồn tại từ nhiều năm nay và vẫn còn đang tiếp diễn.
Vấn đề dân di cư ở khu vực biên giới rất phức tạp. Hầu hết đối tượng
này đều có cuộc sống khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí thấp, không
có bất cứ giấy tờ gì để làm căn cứ xác định nhân thân của họ; quan niệm
về hôn nhân còn đơn giản, nặng về phong tục, tập quán; con sinh ra cũng
không đăng ký khai sinh. Theo số liệu thống kê được đưa ra trong Biên
bản cuộc họp lần thứ XVI giữa hai Đoàn đại biểu biên giới Việt Nam-Lào
ký ngày 30/12/2006 tại thủ đô Viêng Chăn, thì tổng số dân Lào di cư tự
do sang Việt Nam được thống kê sơ bộ là 5.188 người và 666 trường hợp
kết hôn không giá thú sống trên đất Việt Nam; tổng số dân Việt Nam di cư
tự do sang Lào là 4.251 người và 992 trường hợp kết hôn không giá thú
sống trên đất Lào.
Nguyên nhân của tình trạng người Lào di cư tự do sang
Việt Nam và người Việt Nam di cư tự do sang Lào là: dân cư hai bên biên
giới có quan hệ họ hàng, thân tộc, có tập quán du canh, du cư từ lâu
đời; trình độ nhận thức về biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ còn
rất hạn chế; cơ sở hạ tầng, điều kiện làm ăn sinh sống rất khó khăn,
trong khi đó kinh tế, xã hội của Việt Nam và Lào đang ngày càng được cải
thiện, phát triển. Những yếu tố đó đã tác động đến người dân của hai
nước sống tại các tỉnh giáp biên di cư tự do để làm ăn, sinh sống; mặt
khác do thực hiện Hiệp định về Quy chế biên giới Việt Nam – Lào dẫn đến
việc dịch chuyển dân cư giữa một số địa phương hai nước, phần lớn người
dân trước đây mà Việt Nam bàn giao cho Lào nay muốn quay trở lại Việt
Nam cư trú ổn định lâu dài, xum họp với dòng tộc và hưởng các chế độ ưu
đãi của Việt Nam. Riêng số dân di cư từ Lào sang Việt Nam hầu hết đều là
những người lao động nghèo, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nói thông
thạo tiếng Việt, tiếng địa phương. Về cơ bản họ đều chấp hành tốt chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như các
quy định của địa phương, cần cù lao động sản xuất. Trong số dân di cư
tự do này có một số gia đình có công với cách mạng, thuộc diện được
hưởng chế độ chính sách của Nhà nước Việt Nam. Hầu hết số bà con di cư
từ Lào sang Việt Nam cũng đều có nguyện vọng được nhập quốc tịch Việt
Nam để ổn định và làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam.
b. Hướng giải quyết việc nhập quốc tịch cho người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam
Trước tình hình tồn đọng số lượng đông người không
quốc tịch sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, từ năm 2007 đến năm 2008
Thủ tướng Chính phủ đã có những văn bản chỉ đạo cho các bộ, ngành và địa
phương khẩn trương giải quyết việc nhập quốc tịch việt Nam cho những
người từ Campuchia lánh nạn sang Việt Nam, những người dân di cư tự do
tại khu vực biên giới với Lào trên cơ sở nguyện vọng của họ; Đăc biệt,
ngày 13-11-2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01-7-2009, theo đó có một số điều quy định liên quan đến việc giải
quyết nhập quốc tịch Việt Nam của những người không quốc tịch theo hướng
đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có cuộc
sống ổn định, hoà nhập tốt với cộng đồng xã hội Việt Nam, nhanh chóng ổn
định cuộc sống, được hưởng đầy đủ quyền công dân và có điều kiện để làm
nghĩa vụ của họ đối với tổ quốc Việt Nam.
Triển khai Kế hoạch giải quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn: Ngày
04/12/2007 Văn phòng Chính phủ có Công văn số 1221/VPCP-NC thông báo ý
kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đồng ý với đề nghị của Bộ
Ngoại giao về việc đẩy nhanh giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam cho
người Campuchia lánh nạn trước đây, theo đó Thủ tướng Chính phủ giao cho
Bộ Tư pháp thành lập Nhóm công tác liên Bộ: Tư pháp, Ngoại giao, Công
an và một số cơ quan chức năng để lên kế hoạch cụ thể thực hiện việc đẩy
nhanh giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam cho số người này và xử lý các
vấn đề nảy sinh. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Phạm Gia
Khiêm, sau khi trao đổi, thống nhất với đại diện của các cơ quan liên
quan ở Trung ương, Bộ Tư pháp xây dựng và triển khai “Kế hoạch giải
quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia lánh nạn hiện đang sinh sống
tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước”.
Đối tượng được giải quyết cụ thể là những trường hợp
lánh nạn diệt chủng Pol Pot từ Campuchia đến Việt Nam từ những năm bảy
mươi đến năm 1989 mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch gốc và đã
từng được đăng ký tại các trại tị nạn do UNHCR bảo trợ kể cả con, cháu
của họ nếu được sinh ra tại Việt Nam. Cách thức giải quyết là đơn
giản hoá thủ tục, trình tự và miễn giảm một số điều kiện nhập quốc tịch
Việt Nam. Hiện đa số những người này đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
đặc biệt là vấn đề kinh tế, vì vậy khi xem xét giải quyết cho họ làm thủ
tục xin nhập quốc tịch Việt Nam, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không thu lệ
phí cũng như các chi phí có liên quan.
Theo kế hoạch này, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì
và phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành ở Trung ương và Uỷ ban nhân dân
TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình Phước thúc đẩy nhanh chóng việc
giải quyết vấn đề nhập quốc tịch cho người lánh nạn Campuchia một cách
thống nhất và đồng bộ theo kế hoạch; chỉ đạo và hướng dẫn Sở Tư pháp
cùng với các cơ quan liên quan ở địa phương thực hiện việc khảo sát,
thống kê, phân loại, phỏng vấn, lập hồ sơ những người có nhu cầu xin
nhập quốc tịch Việt Nam, trình cơ quan có thẩm quyền cấp trên xem xét,
giải quyết; chỉ đạo và hướng dẫn Sở Tư pháp thực hiện đăng ký kết hôn và
các việc hộ tịch khác theo các văn bản pháp luật hiện hành, đối với
những trường hợp đã được Chủ tịch nước quyết định cho nhập quốc tịch
Việt Nam; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện của địa phương.
Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và
Bình Phước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp để thực hiện Kế hoạch
này tại địa phương; giao cho Sở Tư pháp làm đầu mối chủ trì, phối hợp
với Sở Ngoại vụ, Công an tỉnh, thành phố và Uỷ ban nhân dân phường/xã
liên quan thực hiện Kế hoạch giải quyết vấn đề quốc tịch cho người
Campuchia lánh nạn tại Việt Nam; chỉ đạo Sở Tư pháp triển khai việc khảo
sát, thống kê, phân loại, phỏng vấn, lập hồ sơ những người Campuchia
lánh nạn có nhu cầu xin nhập quốc tịch Việt Nam, trình cơ quan có thẩm
quyền xem xét, giải quyết; chỉ đạo Cơ quan Công an địa phương tiến hành
việc đăng ký hộ khẩu, cấp Giấy chứng minh nhân dân cho những trường hợp
sau khi được Chủ tịch nước ký Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam;
Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Bình
Phước có trách nhiệm triển khai việc khảo sát, thống kê, phân loại,
phỏng vấn, lập hồ sơ những người Campuchia lánh nạn có nhu cầu xin nhập
quốc tịch Việt Nam, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết;
thực hiện đăng ký kết hôn và các việc hộ tịch khác đối với những trường
hợp đã được Chủ tịch nước quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
Lộ trình giải quyết vấn đề quốc tịch cho người
Campuchia lánh nạn hiện đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
Bình Dương và Bình Phước được thực hiện từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 9
năm 2009.
Triển khai Kế hoạch giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới với Lào:
Ngày 20 tháng 10 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
31/2008/CT-TTg về việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái
phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới với Lào. Đó là cơ sở
pháp lý để giải quyết nhanh chóng vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam cho số
dân di cư từ Lào sang Việt Nam. Bộ Tư pháp đã xây dựng và đang chỉ đạo
thực hiện Kế hoạch giải quyết vấn đề dân di cư tự do, vượt biên trái
phép tại các tỉnh biên giới Việt-Lào.
Kế hoạch này được triển khai thực hiện tại 10 tỉnh
của Việt Nam có chung đường biên giới với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào,
gồm: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Kon Tum. Cách thức giải quyết là đơn
giản hoá thủ tục, trình tự và miễn giảm một số điều kiện nhập quốc tịch
Việt Nam. Hiện đa số những người đều này đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
đặc biệt là vấn đề kinh tế, vì vậy khi xem xét giải quyết cho họ làm
thủ tục xin nhập quốc tịch Việt Nam, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không thu
lệ phí cũng như các chi phí có liên quan.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì và phối hợp chặt
chẽ với các Bộ ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh biên giới thúc đẩy
nhanh chóng việc giải quyết vấn đề đăng ký hộ tịch và nhập quốc tịch cho
dân di cư tại khu vực biên giới Việt Nam- Lào một cách thống nhất, đồng
bộ; giải quyết dứt điểm việc nhập quốc tịch Việt Nam cho số người Lào
di cư tự do sang Việt Nam đã được phép cư trú ổn định và có nguyện vọng
xin nhập quốc tịch Việt Nam. Đồng thời Bộ tư pháp chủ trì, phối hợp với
Bộ Ngoại giao, Uỷ ban Dân tộc, các Bộ, ngành liên quan và Uỷ ban nhân
dân 10 tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Lào tiến hành rà soát, hệ
thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết tình trạng di cư
tự do, vượt biên trái phép và nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng chưa đăng ký kết hôn ở khu vực biên giới Việt Nam – Lào để phục vụ
cho việc hướng dẫn, tuyên truyền và vận động nhân dân tuân theo pháp
luật; sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà
nước ta trong lĩnh vực này vào năm 2009;
Bộ Tư pháp hướng dẫn Uỷ ban nhân dân 10 tỉnh có đường
biên giới tiếp giáp với Lào chỉ đạo các Sở Tư pháp giúp các xã biên
giới thực hiện tốt việc đăng ký kết hôn và các việc hộ tịch khác, đồng
thời tiếp nhận giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đối với công
dân Lào theo quy định của pháp luật; thực hiện việc rà soát, phân loại,
thống kê danh sách những người dân di cư kết hôn không giá thú và có
quốc tịch Lào đã cư trú ổn định tại các tỉnh biên giới và đề xuất hướng
xử lý phù hợp với tình hình thực tiễn; liên hệ với cơ quan đại diện
ngoại giao của Lào tại Việt Nam và Bộ Tư pháp Lào về danh sách số người
Lào được phép ở lại xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng như số người Việt
Nam được phép ở lại xin nhập quốc tịch Lào và hoàn tất thủ tục trình cấp
có thẩm quyền của hai nước xem xét, quyết định cho nhập quốc tịch trên
nguyên tắc có đi, có lại.
Việc giải quyết vấn đề kết hôn không giá thú giữa
công dân Việt Nam và công dân Lào và vấn đề quốc tịch của công dân hai
nước tại các tỉnh có chung đường biên giới sẽ được tập trung thực hiện
trong năm 2009 và năm 2010.
Việc nhập quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam: Điều 22 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Người
không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã
cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến
ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì
được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính
phủ quy định”. Đây là một bộ phận khá đông dân cư do nhiều nguyên
nhân khác nhau (chiến tranh, di canh, di cư, kết hôn, quan hệ gia tộc)
vào nước ta từ trước ngày 01-7-1989, sinh sống ở các tỉnh biên giới với
Trung Quốc, Lào, Campuchia), một số trường hợp đã di chuyển vào các
tỉnh, thành phố sâu trong lãnh thổ Việt Nam như TP Hồ Chí Minh, Bà
Rịa-Vũng Tầu, Đồng Nai, Hà Nội, Hải phòng, Đà Nẵng….. Hầu hết trong số
đó đã có cuộc sống ổn định, đã có thời gian khá lâu sống hòa nhập với
cộng đồng xã hội Việt Nam mà không có giấy tờ về nhân thân để chứng minh
quốc tịch, khai sinh, kết hôn của mình. Hầu hết họ đều chấp hành tốt
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Vì vậy, đối tượng này được hưởng sự ưu tiên khi làm hồ sơ, thủ tục
xin nhập quốc tịch Việt Nam. Quốc hội giao cho Chính phủ sẽ thông qua
một Nghị định để quy định trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch
Việt Nam theo hướng giảm các khâu trung gian trong quy trình giải quyết
công việc, đơn giản hóa các thủ tục, thời gian giải quyết hồ sơ nhập
quốc tịch cũng sẽ được rút ngắn hơn, các giấy tờ trong hồ sơ cũng sẽ
được giảm bớt đến mức tối thiểu, hồ sơ được giải quyết theo diện tập thể
hoặc theo danh sách của gia đình, tạo thuận lợi cho người dân, các đối
tượng này đều được miễn lệ phí và các chi phí khác.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với sự chỉ đạo
kiên quyết, kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với
các bộ ngành và địa phương, đồng thời quan hệ hợp tác với cơ quan có
thẩm quyền của các nước có chung đường biên giới nhanh chóng thực hiện
có hiệu quả các kế hoạch giải quyết việc nhập quốc tịch Việt Nam cho
những đối tượng người không quốc tịch, đưa Luật Quốc tịch Việt Nam năm
2008 sớm đi vào cuộc sống./.
SOURCE: CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP TỪ TÀI LIỆU “QUỐC TỊCH VÀ LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM” CỦA HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ
0 comments:
Post a Comment