THS. THÁI THỊ TUYẾT DUNG – Giảng viên Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh
Ở Việt Nam khi đề cập đến quyền riêng tư, dường như mới chỉ dừng lại ở quyền về bí mật đời tư – Civillawinfor
Ở các nước phát triển,
quyền riêng tư được công nhận từ rất sớm, là một trong những quyền cơ
bản nhất của con người [1] và hiện đã trở thành một trong những quyền
quan trọng nhất của quyền con người trong thời hiện đại. Quyền riêng tư
của công dân ngày càng được thừa nhận rộng rãi trong hệ thống pháp luật
của nhiều nước. Hiến pháp của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận quyền
này [2].
1. Sơ lược lịch sử phát triển của quyền riêng tư
Sự riêng tư có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử. Ví dụ
trong Kinh Thánh có nhiều điều đề cập đến quyền riêng tư; trong nền văn
minh Hebrew, nền văn minh Hy Lạp cổ đại và cả Trung Quốc cổ đại cũng có
đề cập đến bảo vệ sự riêng tư [3]. Nhưng có thể nói, quyền riêng tư sơ
khai xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước.
Trong xã hội nguyên thủy, cuộc sống bầy đàn cũng như
tính gắn kết cộng đồng cao, dường như tính riêng tư của cá nhân bị “bỏ
quên”, và con người trong xã hội đó không có khái niệm cũng như không
đòi hỏi cái gọi là “riêng tư” cho bản thân mình. Phải đến khi hình thái
nhà nước đầu tiên thực sự xuất hiện – là nhà nước chiếm hữu nô lệ – thì
“quyền riêng tư” mới manh nha xuất hiện như trường hợp lời thề
Hippocrate trong ngành y, đó là việc các thầy thuốc phải tuyên thệ về
việc giữ bí mật với hồ sơ bệnh án[4].
Tuy nhiên, trong một xã hội mang tính bất bình đẳng
cao giữa các giai cấp như xã hội chiếm hữu nô lệ thì các quyền con người
nói chung và quyền riêng tư nói riêng là quyền mà chỉ tầng lớp chủ nô
mới có; còn giai cấp nô lệ – được xem là một thứ “tài sản biết nói” của
chủ nô – thì không có gì liên quan đến nô lệ mà chủ nô không có quyền
được biết. Những gì liên quan đến nô lệ, bao gồm cả bí mật đời tư đều
thuộc sở hữu và quyền quyết định của chủ nô. Do đó, quyền riêng tư trong
giai đoạn này và cả dưới chế độ phong kiến không được chính thức ghi
nhận bởi pháp luật, nó được coi là một “đặc quyền” mà chỉ có các tầng
lớp cao quý trong xã hội (chủ nô, lãnh chúa phong kiến…) mới được hưởng.
Quyền riêng tư bắt đầu manh nha xuất hiện trong xã
hội chiếm hữu nô lệ và phát triển cho đến ngày nay. Tuy nhiên, tính rõ
ràng của thuật ngữ cũng như tính pháp lý của quyền này chỉ thực sự được
khẳng định cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đó,
có thể nói, quyền riêng tư có nguồn gốc từ phương Tây[5] và phát triển
nhờ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Năm 1361, khi các thẩm phán của Đạo luật Hòa bình
ở Anh đã đưa ra cơ sở cho việc bắt giữ Peeping Toms và các tiêu chuẩn
khác mà không xâm hại về tính riêng tư. Nghị sĩ William Pitt đã viết:
“Những người nghèo nhất có thể thách thức để buộc tất cả các quan chức
phải tôn trọng. Mặc dù, căn nhà của họ có thể là xập xệ, mái của nó có
thể lắc, gió có thể thổi, các cơn bão có thể vào, mưa có thể xâm nhập –
nhưng vua nước Anh không thể vào nhà được”. Nhiều quốc gia khác lần lượt
ghi nhận và phát triển quyền riêng tư trong các thế kỷ tiếp sau đó. Năm
1776, Quốc hội Thụy Điển đã ban hành Luật “Access to Public Records”
yêu cầu tất cả các thông tin của công dân mà chính phủ có chỉ được sử
dụng cho mục đích hợp pháp. Năm 1792, Tuyên bố về Quyền của con người và
công dân ghi nhận rằng: “Tài sản tư nhân là bất khả xâm phạm và thiêng
liêng”.
Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản của
con người được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con
người. Trên bình diện quốc tế và ở những quốc gia phát triển, đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu về sự riêng tư kể từ cuối thế kỷ XIX, nhất
là trong những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, có một nhận định chung
được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận “quyền riêng tư là một khái niệm quá
rộng và hầu như không thể định nghĩa”[6]. Sự quan tâm đến quyền riêng
tư tăng nhanh trong những năm 1960 và 1970 cùng với sự ra đời của công
nghệ thông tin. Các hệ thống máy tính có khả năng giám sát và lưu trữ đã
tác động mạnh mẽ tới việc cần ban hành quy định cụ thể để quản lý việc
thu thập và xử lý thông tin cá nhân.
2. Một số quan điểm về quyền riêng tư
Trong tất cả các quyền con người, có lẽ quyền riêng tư là khó định nghĩa nhất7.
Các định nghĩa về quyền riêng tư rất khác nhau tùy thuộc vào điều kiện
của từng quốc gia và nền văn hóa. Ở nhiều nước, khái niệm này đã được
hợp nhất với khái niệm bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó sự riêng tư
chính là việc quản lý thông tin cá nhân. Trong bối cảnh hiện nay, bảo vệ
sự riêng tư thường xuyên được xem như là một cách để hướng dẫn xã hội
hạn chế can thiệp vào công việc của cá nhân[8].
Việc thiếu một định nghĩa duy nhất không có nghĩa là
vấn đề thiếu tầm quan trọng, vì “theo một nghĩa nào đó, tất cả các quyền
con người đều có khía cạnh của quyền riêng tư”[9].
Trong những năm 1890, Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho rằng,
khái niệm về sự riêng tư là “quyền được ở một mình”. Thẩm phán Brandeis
cho rằng, quyền riêng tư là quyền tự do dân chủ được mong đợi nhất, nó
sẽ được ghi nhận trong Hiến pháp[10]. Mặc dù tính pháp lý của quyền
riêng tư chỉ được thừa nhận từ năm 1948, nhưng khái niệm quyền riêng tư
và những quan điểm xoay quanh nó đã ra đời trước đó rất lâu. Năm 1890,
hai tác giả là Samuel D. Warren và Louis D. Brandeis đã chính thức đề
cập đến khái niệm này trong bài viết “The Right to Privacy” (quyền riêng
tư) đã xác định quyền riêng tư là “quyền được cho phép một mình”[11]
(The Right to be let alone). Phần đầu bài viết tác giả đã giải thích
nguyên nhân bài viết ra đời vì “tình hình chính trị, kinh tế và xã hội
thay đổi nên cần phải công nhận những quyền mới cho phù hợp” và “mục
đích của bài viết là đưa ra đề nghị pháp luật nên thừa nhận nguyên tắc
có thể được bảo vệ sự riêng tư của cá nhân”[12]. Warren và Brandeis cũng
cho rằng, quyền riêng tư nên bảo vệ cả doanh nghiệp, tư nhân và cá
nhân. Theo đó, quyền riêng tư của cá nhân là làm thế nào để bảo vệ
“những suy nghĩ, tình cảm và cảm xúc thể hiện thông qua các phương tiện
như văn bản và hình thức nghệ thuật”[13]. Bài viết này theo học giả pháp
lý Roscoe Pound “không thua kém một chương pháp luật của chúng
tôi”[14].
Robert Ellis Smith, biên tập viên của Tạp chí Bảo
mật, xác định quyền riêng tư là “những mong muốn của mỗi người chúng ta
cho không gian vật lý mà chúng ta có thể hoàn toàn không bị gián đoạn,
xâm nhập, bối rối, hoặc chịu trách nhiệm và kiểm soát được thời gian và
cách thức tiết lộ thông tin của cá nhân thông tin về bản thân”[15]. Tom
Gerety lại cho rằng, quyền riêng tư như là “quyền tự chủ hay kiểm soát
các giá trị nhân thân và bản sắc cá nhân”[16] và khẳng định rằng, một
định nghĩa hẹp cho sự riêng tư là tốt hơn cho một định nghĩa rộng[17].
Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng: “không
nơi nào chúng ta có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về
quyền riêng tư”. Nhưng Hội đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau:
Quyền riêng tư là các quyền của cá nhân được bảo vệ để chống lại sự xâm
nhập vào đời sống cá nhân hay công việc của mình (hoặc những người trong
gia đình) bằng các phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng cách công bố
thông tin[18].
Lời mở đầu của Chương Bảo mật trong Hiến pháp Úc quy
định rằng: Một xã hội tự do và dân chủ đòi hỏi phải tôn trọng quyền tự
chủ của các cá nhân và giới hạn quyền lực của các cơ quan (cả nhà nước
và tư nhân) trong việc xâm phạm vào quyền tự chủ của cá nhân… Quyền
riêng tư là một quyền cơ bản của con người và mỗi người mong muốn được
tôn trọng[19].
Theo quan điểm của một số học giả khác, “quyền riêng
tư” được hiểu là “sự kỳ vọng rằng những thông tin cá nhân được đề cập
tại một nơi riêng tư sẽ không được tiết lộ cho bất kỳ bên thứ ba nào
biết; khi việc tiết lộ đó có thể gây ra sự xấu hổ, đau khổ cho người có
thông tin bị tiết lộ”[20], và “thông tin được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm cả dữ kiện, hình ảnh (ví dụ hình ảnh, băng hình) và ý kiến gièm
pha”[21].
Năm 1970, Alan Westin xuất bản cuốn “Tự do và riêng
tư” (Freedom and Privacy). Theo Westin, “quyền riêng tư như là một quyền
giới hạn của các cá nhân, nhóm, tổ chức để xác định cho mình khi nào,
làm thế nào và ở mức độ nào đối với thông tin của họ được truyền đạt cho
người khác”[22].
Như vậy, khái niệm quyền riêng tư đã ra đời và phát
triển khá lâu trước khi nó được chính thức công nhận là một quyền cơ bản
trong các điều ước quốc tế cũng như trong Hiến pháp của các quốc gia và
hiện nay, quyền này đang định hình, khẳng định vai trò của nó trong hệ
thống các quyền nhân thân của công dân.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa về quyền
riêng tư như sau: Quyền riêng tư là quyền của các cá nhân được phép giữ
kín những thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn liền với cuộc sống riêng tư
của mình, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nơi ở, về thư tín, điện
thoại, điện tín và các thông tin điện tử khác mà không một chủ thể nào
có quyền tiếp cận, công khai trừ trường hợp được chính người này đồng ý
hoặc được bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
“Quyền riêng tư” không đồng nhất với khái niệm “quyền
bí mật đời tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân , tuy nhiên
những vấn đề thuộc về riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi
là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá nhân
nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư”
của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề
không có gì phức tạp bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ
theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì
điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như: luật pháp, quan hệ với
những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán, thói quen…
Chúng ta có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng
luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân (quyền bất khả xâm phạm chỗ ở,
quyền lựa chọn công việc cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản
thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…).
Còn quyền bí mật đời tư bao gồm các đặc điểm sau: (i)
quyền được phép giữ kín những thông tin, tư liệu, sự kiện, hoàn cảnh
liên quan đến đời tư của mình và không có nghĩa vụ phải công khai; quyền
bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín và các thông tin điện
tử khác; (ii) cá nhân và các chủ thể khác không được tự ý tiếp cận và
công bố các thông tin về đời tư cũng như không được kiểm soát thư tín,
điện thoại, điện tín, các thông tin điện tử khác của cá nhân khi chưa sự
đồng ý của “chủ sở hữu” hoặc sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Với khái niệm trên, rõ ràng bí mật đời tư có khái niệm hẹp hơn so với quyền riêng tư.
3. Nội dung của quyền riêng tư
Năm 2004, Tổ chức Quốc tế và trung tâm bảo mật thông tin điện tử có báo cáo “Quyền riêng tư và nhân quyền”[23] với
nội dung công bố về sự phát triển của pháp luật về bảo vệ sự riêng tư ở
50 quốc gia từ năm 1997. Theo đó, quyền riêng tư có các nội dung cơ bản
sau:
- Sự riêng tư về thông tin cá nhân: bao gồm việc ban
hành các quy tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu cá
nhân như thông tin tín dụng, hồ sơ y tế và các hồ sơ của chính quyền lưu
trữ về công dân đó. Nó còn được gọi là “bảo vệ dữ liệu”.
- Sự riêng tư về cơ thể: liên quan đến việc bảo vệ
thân thể (vật chất) của người dân đối với hình thức xâm hại như xét
nghiệm di truyền, thử nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể.
- Sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật
và riêng tư về thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình
thức truyền thông khác.
- Sự riêng tư về nơi cư trú: liên quan đến việc ban
hành các giới hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân,
nơi làm việc hoặc không gian công cộng. Điều này bao gồm tìm kiếm thông
tin, theo dõi bằng video và kiểm tra giấy tờ tùy thân.
4. Mối quan hệ giữa quyền riêng tư và quyền tiếp cận thông tin
Việc công khai hóa chính quyền, làm cho chính quyền
minh bạch hơn là một quá trình khó khăn và phức tạp, thường đòi hỏi một
sự cân bằng khéo léo giữa các nhóm quyền lợi. Chính quyền công khai có
ưu điểm là làm cho việc phân định trách nhiệm rõ hơn và sự tham gia dân
chủ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, chính quyền công khai đôi khi cũng có thể
làm phương hại tới các trị giá xã hội được mọi người trân trọng như
quyền riêng tư của cá nhân. Đa số các chính quyền dân chủ phải là các
chính quyền công khai và minh bạch. Tuy nhiên, ngay cả chính quyền công
khai và minh bạch nhất cũng cần phải có một phần nào bí mật và kín đáo
thì mới hoạt động hiệu quả được.
Quyền riêng tư và quyền tiếp cận thông tin có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cả hai quyền này đều được các công ước quốc
tế và Hiến pháp của nhiều quốc gia bảo vệ, tất cả đều có một điểm chung
đó là sự miễn trừ của quyền tiếp cận thông tin chính là bảo vệ quyền
riêng tư.
Luật pháp của các quốc gia quy định người dân có thể
được tiếp cận các thông tin từ trước đến nay vẫn được giữ kín một cách
không cần thiết và tạo ra quyền của dân chúng (được thi hành theo luật
pháp) có những thông tin mà các viên chức chính quyền không muốn phổ
biến. Đồng thời luật cũng quy định các ngoại lệ nhằm đưa ra một công
thức thực tiễn vừa bao quát vừa cân bằng nhằm bảo vệ quyền lợi của mọi
thành phần liên quan, đồng thời cũng nhấn mạnh trách nhiệm là phải công
khai tất cả thông tin (cần được công khai theo luật).
Sự giằng co giữa các quan điểm cần có một chính quyền
công khai và giữa các quan điểm bảo vệ quyền riêng tư rất gay gắt. Nhất
là trong thời đại ngày nay, từ khi có cơ sở dữ liệu điện tử thì hầu như
không có một ai trong xã hội lại có thể hoàn toàn giữ kín nhiều sự kiện
riêng về mình. Có nhiều thông tin, sự kiện của cá nhân được các cơ quan
nhà nước thu thập một cách rất hợp pháp và được lưu giữ trong cơ sở dữ
liệu do chính quyền kiểm soát. Do đó, nếu muốn cho sự bảo vệ quyền riêng
tư có ý nghĩa thì ta phải thừa nhận rằng hiện nay không thể có sự bảo
mật tuyệt đối. Vì vậy, cần phải có các quy định pháp lý chặt chẽ để việc
tiết lộ các chi tiết riêng tư phải hết sức cẩn trọng và chọn lọc, có
như vậy thì các luật đó chí ít cũng bảo vệ được một phần nào quyền riêng
tư cá nhân.
5. Các mô hình bảo vệ quyền riêng tư
Có bốn mô hình chính để bảo vệ quyền riêng tư. Tùy
thuộc vào việc áp dụng chúng, các mô hình này có thể bổ sung hoặc mâu
thuẫn. Ở các nước bảo vệ quyền riêng tư hiệu quả nhất, họ áp dụng tất cả
các mô hình.
- Ban hành một luật chung để điều chỉnh: Nhiều nước
trên thế giới đã ban hành một luật chung để điều chỉnh việc thu thập, sử
dụng và phổ biến các thông tin cá nhân của cả khu vực công và tư. Một
cơ quan giám sát được thành lập để đảm bảo việc thực hiện. Đây là mô
hình ưa thích cho hầu hết các nước ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu để phù
hợp với quy định của Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu. Một biến thể
của luật này, được mô tả như là một “mô hình hợp tác quản lý,” đã được
thông qua tại Canada và Úc. Theo đó, các ngành công nghiệp tự mình ban
hành các quy tắc cho việc bảo vệ sự riêng tư và được giám sát bởi các cơ
quan bảo mật.
- Ban hành các quy định pháp luật chuyên ngành: Một
số quốc gia như Hoa Kỳ không ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu nói chung mà
cho phép các cơ quan chuyên ngành ban hành các quy định pháp luật. Trong
trường hợp này, việc áp dụng được thông qua một loạt các cơ chế. Một
nhược điểm chính của phương pháp này là nó yêu cầu phải có văn bản pháp
luật kịp thời để phù hợp với mỗi công nghệ mới để tránh sự tụt hậu. Việc
thiếu quy định để bảo vệ sự riêng tư cá nhân trên Internet tại Hoa Kỳ
là một ví dụ nổi bật về hạn chế của phương pháp này. Ngoài ra còn có vấn
đề là thiếu cơ quan giám sát chung. Ở nhiều nước, pháp luật chuyên
ngành được ban hành để bổ sung luật chung bằng cách cung cấp nhiều chi
tiết để bảo vệ một số loại thông tin, chẳng hạn như viễn thông, các tập
tin cảnh sát hoặc các hồ sơ tín dụng tiêu dùng.
- Ban hành Quy chế nội bộ của cơ quan: Về mặt lý
thuyết, bảo vệ dữ liệu cũng có thể đạt được thông qua việc các công ty,
cơ quan của các ngành công nghiệp tự ban hành các bảng quy định, xây
dựng hệ thống ký hiệu riêng và tham gia vào quá trình giám sát với các
hình thức khác nhau. Tuy nhiên, ở nhiều nước, nhất là Hoa Kỳ, những nỗ
lực này đã không thành công, vì có rất ít bằng chứng để chứng minh rằng
các ký hiệu riêng này thường xuyên thực hiện. Ký hiệu riêng của ngành
công nghiệp ở nhiều nước có xu hướng chỉ cung cấp sự bảo vệ yếu kém và
thiếu khả thi.
- Áp dụng công nghệ tự bảo vệ quyền riêng tư: Gần đây
cùng với sự phát triển của hệ thống thương mại điện tử và công nghệ, có
nhiều thiết bị được sử dụng để bảo vệ quyền riêng tư, ví dụ: mã hóa,
các máy chủ proxy và thanh toán trực tuyến[24]. Người tiêu dùng cũng nên
biết rằng không phải tất cả các công cụ đều bảo vệ sự riêng tư hiệu
quả. Một số thiết bị kém chất lượng được thiết kế để tạo điều kiện truy
cập bất hợp pháp.
Khuynh hướng chung hiện này là cần ban hành một văn bản luật chung để điều chỉnh quyền riêng tư vì ba lý do: Thứ nhất,
để khắc phục những bất cập trong quá khứ. Nhiều quốc gia, đặc biệt là ở
Trung Âu, Nam Mỹ và Nam Phi đã ban hành luật để khắc phục tình trạng vi
phạm quyền riêng tư đã xảy ra dưới chế độ độc tài trước đây. Thứ hai,
để thúc đẩy thương mại điện tử. Nhiều nước, đặc biệt là ở châu Á, đang
nỗ lực ban hành luật để thúc đẩy thương mại điện tử. Các nước này nhận
ra rằng, người tiêu dùng rất khó chịu với việc bị thu thập dữ liệu cá
nhân của họ trong giao dịch điện tử, đặc biệt với phương tiện mới về
nhận dạng. Họ e ngại với thông tin cá nhân của mình được gửi đi trên
toàn thế giới. Luật Bảo vệ quyền riêng tư đang được giới thiệu như là
một phần của “gói” pháp luật nhằm tạo thuận lợi cho thương mại điện tử
thiết lập các quy tắc thống nhất. Thứ ba, để đảm bảo pháp luật
phù hợp với pháp luật của cộng đồng chung Châu Âu, hầu hết các nước ở
Trung và Đông Âu đang ban hành luật mới dựa trên Công ước của Liên minh
châu Âu về bảo vệ dữ liệu. Nhiều người trong số các nước này hy vọng
quốc gia của họ sẽ gia nhập Liên minh châu Âu trong tương lai gần. Với
các nước ở các khu vực khác thì việc ban hành luật mới hoặc sửa đổi các
văn bản cho phù hợp nhằm đảm bảo hợp tác thương mại mà sẽ không bị ảnh
hưởng bởi các yêu cầu của Liên minh châu Âu.
6. Quyền riêng tư trong các văn bản quốc tế
Sự riêng tư được công nhận trên toàn thế giới với các
khu vực đa dạng về nền văn hóa. Nó được bảo vệ trong Tuyên ngôn Nhân
quyền, Công ước quốc tế về Quyền dân sự và chính trị và nhiều công ước
quốc tế và khu vực về nhân quyền. Đa số các nước đều xác định quyền
riêng tư trong Hiến pháp. Quy định tối thiểu nhất là quyền bất khả xâm
phạm về nơi ở và bí mật thông tin liên lạc. Gần đây, một số Hiến pháp
các nước quy định cụ thể về quyền tiếp cận và kiểm soát thông tin cá
nhân. Ở nhiều nước mà quyền riêng tư không quy định trong Hiến pháp thì
được quy định trong các văn bản khác.
Quyền riêng tư đã được coi là một trong những quyền
cơ bản của con người và được chính thức ghi nhận lần đầu tiên trong
Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948 (Universal Declaration of
Human Rights)[25]. Điều 12 Tuyên ngôn ghi nhận: “Không ai phải chịu sự
can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nhà ở hoặc
thư tín cũng như bị xúc phạm về nhân phẩm hoặc uy tín của cá nhân. Mọi
người đều được pháp luật bảo vệ chống lại sự xúc phạm và can thiệp như
vậy”.
Tiếp đó, Điều 8 Công ước về bảo vệ nhân quyền và
những quyền tự do cơ bản năm 1950 xác định: “Cơ quan công quyền không
được phép can thiệp vào việc thực hiện quyền riêng tư trừ trường hợp
pháp luật quy định vì cần thiết cho một xã hội dân chủ hoặc vì lợi ích
của an ninh quốc gia, an toàn công cộng hoặc vì sự thịnh vượng của đất
nước với mục đích ngăn ngừa sự hỗn loạn hoặc tội phạm, bảo vệ sức khỏe
hoặc các giá trị đạo đức hoặc bảo vệ quyền và sự tự do của các chủ thể
khác”.
Đến nay, quyền riêng tư được ghi nhận trong rất nhiều
công ước quốc tế như “Công ước quốc tế về Quyền dân sự và chính trị năm
1966” (International Conenant on Civil and Polictical Rights)[26] và
trong một số công ước khác của Liên hiệp quốc. Điều 17 Công ước quốc tế
về Quyền dân sự và chính trị ghi nhận: “(1) Không ai bị can thiệp một
cách độc đoán và bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở,
thư tín; hoặc bị xúc phạm một cách bất hợp pháp đến danh dự và uy tín.
(2) Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự can
thiệp và xúc phạm như vậy”. Quyền riêng tư cũng được thừa nhận trong các
công ước quốc tế khu vực như Điều 8 Công ước Nhân quyền châu Âu
(European Convention on Human Rights 1950) xác định: “(1) Mọi người đều
có quyền được tôn trọng đời sống riêng tư và gia đình, nhà ở và thư từ.
(2) Sẽ không có sự can thiệp của một cơ quan công quyền với việc thực
hiện quyền này, ngoại trừ những việc phù hợp với luật pháp và đó là sự
cần thiết trong một xã hội dân chủ vì lợi ích của an ninh quốc gia, an
toàn công cộng hoặc các phúc lợi kinh tế của đất nước, cho công tác
phòng chống rối loạn hoặc tội phạm, để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo lý, hay
để bảo vệ các quyền tự do của người khác”. Công ước cũng quy định việc
thành lập Ủy ban Nhân quyền Châu Âu[27] và Tòa án Nhân quyền châu Âu để giám sát việc thực hiện.
Điều 11 Công ước Nhân quyền Châu Mỹ cũng đưa ra các
quyền riêng tư với nội dung tương tự như bản Tuyên ngôn 1948[28]. Năm
1965, Tổ chức các nước châu Mỹ ban hành Tuyên bố Châu Mỹ về Quyền và
trách nhiệm của con người, trong đó kêu gọi bảo vệ quyền con người bao
gồm bảo vệ quyền riêng tư[29]. Ngoài ra, có hai văn bản quốc tế quan
trọng chi phối pháp luật về quyền riêng tư của nhiều nước là: Công ước
của Hội đồng châu Âu 1981 về bảo vệ cá nhân đối với việc xử lý tự động
của dữ liệu cá nhân (COE)[30] và Hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác kinh tế
và phát triển (OECD) về Bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân giữa
các quốc gia[31] đặt ra các quy tắc cụ thể bao gồm việc xử lý dữ liệu
điện tử. Hai văn bản trên có ảnh hưởng sâu sắc đến việc ban hành pháp
luật trên thế giới. Đã có gần ba mươi quốc gia đã ký Công ước COE. Các
hướng dẫn của OECD cũng được sử dụng rộng rãi trong luật pháp các nước
ngay cả các nước không phải là thành viên OECD.
Như vậy, rõ ràng quyền riêng tư là một quyền cơ bản
của con người, quyền này là nền tảng để tôn trọng phẩm giá con người và
các giá trị khác như quyền tự do lập hội và tự do ngôn luận. Nó đã trở
thành một trong những quyền con người quan trọng nhất của thời hiện
đại[32]. Các vấn đề về quyền riêng tư đã được Liên hiệp quốc công nhận
là quyền con người cần được bảo vệ. Các nước phát triển đã ban hành đạo
luật về quyền riêng tư hoặc các văn bản điều chỉnh vấn đề này nhằm bảo
vệ quyền thiêng liêng của con người. Đối với Việt Nam, những vấn đề về
quyền riêng tư cần được nghiên cứu đầy đủ để kiến nghị các cơ quan có
thẩm quyền ban hành quy định pháp lý cần thiết để điều chỉnh các quan hệ
xã hội liên quan đến quyền riêng tư theo đúng quy luật phát triển nhằm
đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại.
[1] Privacy and human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice
[2] Tuy nhiên hiện nay, vẫn có một số quốc gia
trên thế giới không ghi nhận quyền bí mật đời tư trong Hiến Pháp mà quy
định ở các văn bản pháp luật như: Hoa Kỳ, Ireland, Ấn Độ… “Privacy and
human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice” http://gilc.org/privacy/survey/intro.html.
[3] Privacy and human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice
[4] Quyền được giữ bí mật đối với hồ sơ bệnh án đã xuất hiện từ thời Hippocrate, đó là “Lời thề Hippocrate” mà mọi Y sinh trước khi được công nhận trở thành một thầy thuốc đều phải tuyên thệ. Lời thề này vẫn còn được áp dụng cho đến ngày hôm nay, dù cho lời thề đã có thể thay đổi hành văn tuỳ nơi, nhưng nội dung vẫn hàm chứa vấn đề y đức có nêu trong lời thề Hippocrate nguyên thuỷ – được lược dịch như sau: “…Bất kỳ một điều gì tôi nghe hoặc thấy mà có liên quan đến bệnh nhân hoặc thậm chí chỉ liên quan một phần – những điều không nên bàn tán, tôi sẽ giữ im lặng và coi đó là những điều bí mật thiêng liêng, không xâm phạm, trọn đời tôi chỉ là thực thi chuyên môn”. Xem thêm: Hà Nguyên, Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin của bệnh nhân, http://www.ykhoanet.com/binhluan/hanguyen/36.htm.
[5] Privacy and human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice
[6] Thạc sỹ Đỗ Hải Hà, Quyền riêng tư của người lao động, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 3 năm 2009.
[7] James Michael, Privacy and Human Rights 1 (UNESCO 1994).
[8] Simon Davies, Big Brother: Britain’s Web of Surveillance and the New Technological Order 23 (Pan 1996).
[9] Volio, Fernando, "Legal personality,
privacy and the family" in Henkin (ed), The International Bill of
Rights (Columbia University Press 1981).
[[1]0] Samuel Warren and Louis Brandeis, The Right to Privacy, 4 Harvard Law Review 193-220 (1890).
[[1]1]Warren and Brandeis (December 15, 1890). "The Right to Privacy". Harvard Law Review IV (5): p.193.
[[1]2] Warren and Brandeis (December 15, 1890). "The Right to Privacy". Harvard Law Review IV (5).
[[1]3] Warren and Brandeis (December 15, 1890). "The Right to Privacy". Harvard Law Review IV (5).
[[1]4] Privacy law of the United states, Online: http://en.wikipedia.org/wiki/Privacy_laws_of_the_United_States
[[1]5] Robert Ellis Smith, Ben Franklin’s Web Site 6 (Sheridan Books 2000).
[[1]6]Protecting the right to privacy in china, Online:http://www.austlii.edu.au/nz/journals/VUWLRev/2005/25.html.
[[1]7] Protecting the right to privacy in china, Online:http://www.austlii.edu.au/nz/journals/VUWLRev/2005/25.html.
[[1]8] Report of the Committee on Privacy and Related Matters, Chairman David Calcutt QC, 1990, Cmnd. 1102, London: HMSO, at 7.
[[1]9] "The Australian Privacy
Charter," published by the Australian Privacy Charter Group, Law School,
University of New South Wales, Sydney (1994).
[20]Privacy law in USA, http://www.rbs2.com/privacy.htm.
[21]Privacy law in USA, http://www.rbs2.com/privacy.htm.
[22]Alan F. Westin Publisher: The Bodley Head Ltd (April 16, 1970), ISBN-10: 0370013255, ISBN-13:
978-0370013251, New York, U.S.A.: Atheneum. “Privacy is the claim of
individuals, groups or institutions to determine for themselves when,
how, and to what extent information about them is communicated to
others”.
[23] Privacy and human righgts An International Survey of Privacy Laws and Practice
[24]EPIC maintains a list of privacy tools at http://www.epic.org/privacy/tools.html
[25] Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc (UN General Assembly Resolution) 217 A (III), 10/12/1948.
[26] Nghị quyết 2200 A (XXI), 16/12/1966, có hiệu lực 23/03/1976.
[27]Ủy ban Nhân quyền Châu Âu thành lập vào năm
1976, Nadine Strossen, Recent United States and International Judicial
Protection of Individual Rights: A comparative Legal Process Analysis
and Proposed Synthesis, 41 Hastings Law Journal 805 (1990).
[28] Signed November 22, 1969, entered into force
July 18, 1978, O.A.S. Treaty Series No. 36, at 1, [29] O.A.S. Off. Rec.
OEA/Ser. L/V/II.23 dec rev. 2, available at http://www.oas.org/juridico/english/Treaties/b-32.htm.
[30] O.A.S. Res XXX, adopted by the Ninth Conference of American States, 1948 OEA/Ser/. L./V/I.4 Rev (1965).
Convention for the Protection of Individuals with
regard to the Automatic Processing of Personal Data Convention, ETS No.
108, Strasbourg, 1981, available at http://www.coe.fr/eng/legaltxt/108e.htm.
[31] OECD, "Guidelines Governing the Protection of Privacy and Transborder Data Flows of Personal Data" (1981), available at http://www.oecd.org/dsti/sti/it/secur/prod/PRIV-EN.HTM
[32] Marc Rotenberg, Protecting Human Dignity in the Digital Age (UNESCO 2000).
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment