NGUYỄN HẢI AN – Tòa Dân sự – Tòa án nhân dân tối cao
1. Tại điều 25 của luật Hôn nhân và Gia đình quy
định: Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên
thực hiện: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với
giao dịch dân sự hợp pháp do một trông hai người thực hiện nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Và khoản 3 Điều 28 của
Luật này còn quy định: Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân
sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất
của gia đình việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ
chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh
doanh riêng theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng
10 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và
Gia đình, thì việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự
liên quan đến tài sản của vợ, chồng được quy định như sau:
“1. Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện hoặc
chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị
lớn của vợ chồng hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình,
việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch liên quan đến định
đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản
đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống
duy nhất của gia đình mà pháp luật quy định thì sự thỏa thuận của vợ
chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của
vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực…)
2. Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật
không có quy định phải tuân theo hình thức nhất định, nhưng giao dịch đó
có liên quan đến việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên
vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình, thì việc xác
lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó cũng phải có sự thỏa thuận
bằng văn bản của vợ chồng.
3. Tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng nói
tại khoản 1, khoản 2 Điều này được xác định căn cứ vào phần giá trị của
tài sản đó trông khối tài sản chung của vợ chồng.
4. Trông trường hợp vợ chồng xác lập, thực hiện
hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung quy định
tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên
đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định
tại Điều 139 của Bộ luật Dân sự và hậu quả pháp lý được giải quyết theo
quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự.”
2. Theo các quy định nêu trên của pháp luật thì khi
tham gia vào giao dịch dân sự nói chung cũng như hợp đồng dân sự nói
riêng đối với tài sản chung của vợ và chồng đều phải có sự thỏa thuận và
đồng ý của cả vợ và chồng. Nếu một bên vợ hoặc chồng không có sự đồng
ý, thì giao dịch dân sự hay hợp đồng dân sự đó là bất hợp pháp, bị coi
là vô hiệu. Đối với các hợp đồng dân sự do một bên vợ hoặc chồng thực
hiện thì vợ hoặc chồng chỉ phải chịu trách nhiệm liên đới khi:
- Giao dịch đó phải hợp pháp:
- Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình.
Song trên thực tế giải quyết các vụ án về vấn đề này
lại rất phức tạp, rất nhiều hợp đồng dân sự do một bên vợ hoặc chồng
thực hiện không có sự bàn bạc, thỏa thuận với bên kia. Khi một bên vợ
hoặc chồng phát hiện ra, có yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng, các Tòa án đều
xác định hợp đồng dân sự đó vị vô hiệu, nhưng việc xác định trách nhiệm
liên đới của bên không tham gia của các Tòa án lại rất khác nhau. Chúng
tôi nhận thấy cần phải nhận thức đúng về vấn đề này và có đường lối giải
quyết cho thống nhất, xin nêu một số ví dụ cụ thể như sau:
Ví dụ thứ nhất: Theo hợp đồng mua bán căn nhà số 24 A
Lê Minh Ngươn, phường Mỹ Lông thành phố Lông Xuyên, tỉnh An Giang ngày
3-01-2001 lập tại Phòng Công chứng Nhà nước thì vợ chồng ông Vương Tấn
Dũng, bà Phạm Thị Nga thỏa thuận bán nhà cho vợ chồng ông Lâm Đức Trung,
bà Văng Thị Bạch Tuyết với giá 300.000.000 đồng. Ngày 28-02-2001 ông
Lâm Đức Trung được UBND tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với căn nhà nêu trên. Trong khi bán nhà cho ông Trung, thì ông
Dũng vẫn đang cho bà Nguyễn Kim Hoàng thuê. Ngày 6-3-2001 ông Trung lại
lập hợp đồng bán căn nhà trên cho bà Kha Thị Hiếng với giá 345.000.000
đồng. Do đó ông Trung đã khởi kiện xin hủy hợp đồng mua bán nhà với ông
Trung vì cho rằng ông bị ông Trung ép buộc bán nhà trừ nợ và nhà đất là
tài sản của vợ chồng ông và bà Nga, hợp đồng mua bán nhà có chữ ký của
bà Nga, ông Dũng xin hoàn lại tiền bán nhà cho ông Trung.
Căn cứ vào kết luận giám định số 1017 ngày 15-4-2002
của Viện khoa học hình sự Bộ Công an thì chữ ký trông hợp đồng mua bán
nhà giữa ông Dũng, bà Nga với ông Trung, bà Tuyết không phải chữ ký của
bà Nga, nên Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều xác định hợp đồng
mua bán nhà giữa ông Dũng với vợ chồng ông Trung là vô hiệu.Tại Bản án
dân sự phúc thẩm số 147/DSPT ngày 16-4-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang nhận định để đảm bảo việc thi hành án nên tuyên xử buộc vợ chồng
ông Dũng và bà Nga cùng liên đới hòan trả cho vợ chồng ông Trung
300.00.000 đồng tiền bán nhà đã nhận và tiền chênh lệch 1/2 giá trị căn
nhà là 191.807.000 đồng. (Ngoài ra Bản án còn giải quyết các quan hệ
pháp luật khác).
Ví dụ hai: Ngày 16-3-2000 ông Nguyễn Văn Can lập hợp
đồng bán cho anh Doãn Hữu Hùng căn nhà tại tổ 6, khu 5, phường Trần Hưng
Đạo, thành phố Hạ Lông, tỉnh Quang Ninh là tài sản chung của vợ chồng
ông và bà Ngô Thị Lý với giá 34.500.000 đồng, không có sự đồng ý của bà
Lý. Do đó bà Lý dã khởi kiện đòi anh Hùng phải trả lại nhà cho bà. Ông
Can và anh Hùng đều thừa nhận việc mua bán nhà chưa có sự đồng ý của bà
Lý, tiền bán nhà ông Can đã sử dụng. Anh Hùng đề nghị được tiếp tục thực
hiện hợp đồng, trường hợp phải trả lại nhà thì yêu cầu ông Can, bà Lý
phải trả cho anh tiền mua nhà và tiền sửa chữa nhà mà anh đã bỏ ra là
28.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều xác định hợp
đồng mua bán nhà giữa ông Can với ông Hùng là vô hiệu. Tại Bản án dân sự
phúc thẩm số 11/DSPT ngày 6-3-2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
đã quyết định: Buộc anh Hùng phải trả cho bà Lý, ông Can căn nhà tại tổ
6, khu 5, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hạ Lọng, tỉnh Quảng Ninh. Buộc
ông Can phải trả cho anh Hùng 34.500.000 đồng. Vợ chồng bà Lý, ông Can
có trách nhiệm liên đới thanh tóan tiền sửa chữa nhà cho anh Hùng.
19.000.000 (vì bà Lý, ông Can cùng được nhận lại nhà, thì cùng phải liên
đới thanh tóan cho anh Hùng tiền sửa chữa nhà).
Ví dụ ba: Từ ngày 2-7-1997 đến 28-2-1997, bà Nguyễn
Thị Nga có cho bà Đào Thị Nhâm vay 7 lần tổng cộng là 477.000.000 đồng.
Việc vay nợ chỉ do một mình bà Nhâm ký giấy nhận nợ. Hai bên thỏa thuận
lãi suất 2%/tháng, bà Nhâm có giao cho bà Nga giấy tờ nhà 3 tầng do bà
Nhâm đứng tên để thế chấp nợ. Do bà Nhâm không chịu trả nợ nên bà Nga đã
khởi kiện đòi nợ. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 23-3-1999
của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Phả và tại Bản án dân sự phúc thẩm số
32/DSPT của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đều quyết định: Buộc bà Nhâm
phải hoàn trả bà Nga 477.000.000 đồng tiền nợ gốc và 143.000.000 đồng
tiền lãi. Ngày 03-5-2002 Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có
Quyết định số 54/KNDS kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên với
nhận định: Cần xác định ông Hà Văn Hiên – chồng bà Nhâm liên đới chịu
trách nhiệm trả nợ, vì việc kinh doanh của bà Nhâm nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt của gia đình và ông Hiên không thừa nhận nhưng ông Hiên đương
nhiên phải biết việc kinh doanh đó của bà Nhâm. Tại Quyết định giám đốc
thẩm số 173/GĐT-DS ngày 22-8-2002 của Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Bản
án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo hướng kháng nghị của Phó chánh
án. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 30-6-2003 và Bản án dân sự
phúc thẩm số 131/DSPT ngày 19-6-2003 đều quyết định: Buộc bà Nhâm và
ông Hiên phải trả nợ cho bà Nga 477.000.000 đồng nợ gốc và 391.000.000
đồng tiền lãi.
Như vậy, qua các ví dụ nêu trên đều cho thấy: Các hợp
đồng dân sự (hợp đồng mua bán nhà và hợp đồng vay nợ) đều được một bên
vợ hoặc chồng xác lập liên quan đến tài sản chung của vợ chồng các hợp
đồng dân sự đó đều bị Tòa án các cấp tuyên bố vô hiệu là đúng. Song việc
xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với hợp đồng dân sự do
một bên thực hiện và việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu có
khác nhau.
3. Để khắc phục tình trạng trên khi giải quyết các vụ
án xác định trách nhiệm liên đới liên quan đến hợp đồng dân sự bất hợp
pháp do một bên vợ hoặc chồng thực hiện đối với tài sản chung của vợ
chồng, chúng tôi nhận thấy cần phải thống nhất đường lối giải quyết loại
việc này như sau:
- Nếu một bên vợ hoặc chồng tham giá các hợp đồng dân
sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của
bên kia, thì bên đó có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng dân sự đó,
Tòa án phải tuyên bố hợp đồng dân sự đó là vô hiệu.
- Tuy một bên vợ hoặc chồng không có sự tham gia hợp
đồng dân sự, làm cho hợp đồng dân sự đó trở nên bất hợp pháp, bị coi là
vô hiệu, song thông qua các hợp đồng đó vẫn nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt của gia đình, thì bên vợ hoặc chồng không tham gia hợp đồng dân sự
vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối với việc xử lý hậu quả pháp lý
của hợp đồng vô hiệu.
- Việc thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý của bên vợ
hoặc chồng không tham gia hợp đồng dân sự, không nhất thiết phải được
xác định bằng văn bản thỏa thuận, mà chỉ cần xác định bên vợ hoặc chồng
không tham gia hợp đồng dân sự đó có biết và phải biết việc tham gia hợp
đồng dân sự của phía bên kia, thì sẽ buộc họ phải có trách nhiệm liên
đới đối với việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
SOURCE: vietnamese-law-consultancy.com
0 comments:
Post a Comment