NGUYỄN THANH XUÂN
Trình tự, thủ tục đăng
ký kết hôn của công dân hiện nay được thực hiện theo Nghị định 158 về
đăng ký và quản lý hộ tịch. Theo đó, UBND cấp xã là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn cho công dân trong nước. Tuy
nhiên, kiểm tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch cho thấy, vẫn còn nhiều
sai sót trong quá trình giải quyết đăng ký kết hôn cho người dân, dẫn
đến nhiều hệ lụy pháp lý phát sinh sau này.
Điều 18 Nghị định 158 quy định, khi đến đăng ký kết
hôn tại UBND cấp xã- nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thì hai bên nam,
nữ phải nộp tờ khai theo mẫu quy định và xuất trình chứng minh nhân
dân. Trong trường hợp, một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này
nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác thì phải có xác nhận
của UBND cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó. Quy
định như vậy, nhưng qua kiểm tra, có nhiều hồ sơ một trong các bên nam,
nữ không tiến hành xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định, hoặc có xác nhận tình trạng hôn nhân nhưng đã quá hạn 6 tháng mà UBND cấp xã vẫn giải quyết
cho đăng ký kết hôn. Lẽ ra, trong trường hợp này phải yêu cầu xác nhận
lại tình trạng hôn nhân, nhưng cán bộ hộ tịch cơ sở vẫn giải quyết cho
đương sự đăng ký kết hôn là không đúng luật. Ngược lại, chỉ yêu cầu các
bên nam, nữ xuất trình chứng minh nhân dân để đối chiếu với tờ khai đăng
ký kết hôn theo thủ tục, nhưng nhiều cán bộ hộ tịch vẫn yêu cầu người
dân phải photo nộp cả chứng minh nhân dân, gây phiền phức cho người dân.
Thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn, nhiều UBND
cấp xã giải quyết chưa đúng quy định. Theo luật định, để UBND cấp xã
giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn cho người dân là 5 ngày, kể từ ngày
nhận đủ các giấy tờ, thủ tục hợp lệ; nếu xác minh các vấn đề nào khác
thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 5 ngày. Nhưng thực tế vẫn có
nhiều hồ sơ gần 1 tháng vẫn chưa giải quyết, gây nhiều phiền hà cho
người dân.
Sai sót nhiều nhất trong thủ tục giải quyết đăng
ký kết hôn cho công dân là việc ký tên trong chứng nhận kết hôn, sổ đăng
ký kết hôn và tờ khai đăng ký kết hôn. Một trong những quy định bắt
buộc trong thủ tục giải quyết đăng ký kết hôn là các bên nam, nữ đều
phải ký tên vào sổ đăng ký kết hôn để chứng tỏ quan hệ hôn nhân do các
bên xác lập là quan hệ hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và chịu trách nhiệm
về quan hệ hôn nhân do mình xác lập. Khoản 3, Điều 18, Nghị định 158 quy
định: khi đăng ký kết hôn hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện UBND
cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện đăng ký kết hôn, nếu
hai bên đồng ý kết hôn thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết
hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Sau đó, hai bên nam, nữ ký vào Sổ và
Giấy chứng nhận kết hôn; chủ tịch UBND cấp xã sẽ ký, cấp cho mỗi bên
nam, nữ một bản chính giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và Gia đình. Đây còn gọi là nghi thức đăng ký kết hôn
(hay lễ đăng ký kết hôn), tuy nhiên hầu hết các UBND cấp xã không hề
thực hiện nghi thức này. Nhiều trường hợp cho thấy, chỉ có một bên nam
hay nữ đơn phương đến UBND cấp xã nhận Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;
chỉ cần có chữ ký của một trong các bên, bên còn lại không ký vào chứng
nhận kết hôn cũng được UBND cấp xã cho nhận Giấy chứng nhận kết hôn.
UBND xã cho rằng, không có thời gian để tiến hành lễ đăng ký kết hôn cho
người dân, chỉ cần cán bộ Tư pháp- hộ tịch tiếp nhận hồ sơ, tham mưu
UBND xã ký chứng nhận kết hôn là đủ. Giải quyết kiểu “đốt cháy giai
đoạn” như vậy sẽ phát sinh nhiều hệ quả pháp lý sau này, nếu một trong
các bên đăng ký kết hôn không thừa nhận quan hệ hôn nhân của mình trước
Tòa án- khi ly hôn, do giấy tờ đăng ký kết hôn không hợp lệ và phát sinh
tranh chấp tài sản thì UBND cấp xã sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm về
việc giải quyết đăng ký kết hôn không đúng luật.
Khâu lưu trữ hồ sơ đăng ký kết hôn cũng chưa đúng quy
định, nhiều cán bộ Tư pháp- hộ tịch cơ sở chưa thực hiện việc lưu trữ
các thủ tục đăng ký kết hôn của người dân. Theo quy định, các giấy tờ
đương sự đã nộp khi đăng ký hộ tịch phải được lưu trữ, bảo quản tại cơ
quan đăng ký hộ tịch trong thời hạn 5 năm, nhằm phục vụ cho hoạt động
quản lý nhà nước về hộ tịch . Nhưng qua kiểm tra, phát hiện các hồ sơ
đăng ký kết hôn ở nhiều xã chỉ trong một hai năm gần đây cũng không còn
lưu trữ, không thể đối chiếu, xác minh khi có khiếu nại, tố cáo xảy ra.
Hồ sơ đăng ký kết hôn không được lưu trữ, dẫn đến mất mát còn gây khó
khăn cho công tác quản lý hộ tịch ở địa phương.
Đăng ký kết hôn cho công dân là nhiệm vụ của UBND cấp
xã. Để tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền kết hôn theo quy
định, UBND xã phải áp dụng đúng luật để giải quyết các thủ tục cần
thiết. Có như vậy mới bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của công dân,
tránh những hệ lụy pháp lý phát sinh sau này.
SOURCE: BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment