Tuesday, September 17, 2013

Pháp luật phong kiến phương đông - ThS Lê Thị Thanh Nhàn

Bài 8
PHÁP LUẬT PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG

I. PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

1. Công tác ban hành pháp luật

a. Pháp luật nhà Tần

- Tháng 12 năm 1972, các nhà khảo cổ học phát hiện bộ “Vân Mộng Tần Giản”. Trong bộ này gồm có “Bộ Tần Luật” do Thừa tướng Lý Tư sưu tầm và hệ thống hoá dựa trên bộ Pháp Kinh (Đạo, Tặc, Võng, Bổ, Tạp, Cụ) của nước Hàn thời Chiến Quốc. Ngoài ra, còn có các văn bản đơn lẻ do nhà Vua ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Về hình thức pháp luật, gồm có các hình thức sau:
+ Luật: gồm 29 luật. Là hình thức chính của pháp luật nhà Tần (Luật Điền Địa; Luật Chăn Nuôi; Thương Luật; Công Luật; Công Phân Trình Luật; Kim Bố Luật; Quan Thị Luật…)
+ Lệnh: là chiếu của hoàng đế, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
+ Pháp luật vấn đáp: việc giải thích luật hình, cũng có hiệu lực pháp lý.
+ Thức: thể thức tra hỏi, xét xử
+ Lệ: (án lệ) những bản án đã được xử rồi vẫn được tiếp tục dùng để bổ khuyết những phần còn thiếu sót của pháp luật.
- Như vậy pháp luật nhà Tần đã có đầy đủ các chế định của dân sự, hình sự, tố tụng. Về hình phạt, sử dụng hình phạt giam cầm để thay thế cho hình phạt mang tính chất nhục hình. Đây là một tiến bộ nhưng nhìn chung các hình phạt còn rất tàn ác, dã man.

b. Pháp luật nhà Hán

- Nhà Hán (đặc biệt là trong thời kỳ trị vì của Hán Vũ Đế) rút kinh nghiệm của nhà Tần trong việc trị nước nên đồng thời với việc đặt ra hình luật còn sử dụng Nho gia làm tư tưởng chủ đạo nên chủ trương:
+ “Bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật”
+ “Đức chủ hình phụ” (lấy đức làm chủ yếu, còn hình phạt là phụ theo, dùng để trợ giúp cho việc thực hành đức)
+ “Lễ pháp tịnh dụng” (lễ và pháp cùng áp dụng ngang nhau).
+ “Lấy Xuân Thu quyết án”
- Ban hành pháp luật:
+ Thừa tướng Tiêu Hà chịu mệnh của Hán Cao Tổ, tham khảo Tần Luật đặc ra “Cửu Chương Luật” (lấy lục luật của Tần làm cơ sở: Tắc Đạo Luật, Trá Nguỵ Luật, Đoạn Ngục Luật, Bổ Vong Luật, Tạp Luật, Danh Lệ Luật) tăng thêm 3 luật: Hộ Luật (luật hôn nhân, gia đình) Hưng Luật (thuế khoá, lao dịch) và Cứu Luật (quân đội, chuyên chở, …).
+ Đến đời Hán Vũ Đế, còn cho soạn thảo những luật liên quan đến việc cảnh vệ ở cung đình, lễ nghi, triều chính… gồm tổng cộng 60 thiên, gọi là “Hán Luật”.
- Cải cách:
+ Nhà Hán có những cải cách về việc áp dụng luật hình như giảm nhẹ hình phạt:
· Cạo đầu, lấy vòng sắt buộc quanh đầu đày đi làm lao công xây dựng thành dùng để thay thế cho hình phạt thích chữ lên mặt,
· Đánh 300 roi thay cho hình phạt cắt mũi,
· Đánh 500 roi thay cho hình phạt chặt đầu gối trái,
· Giảm nhẹ hình phạt đối với người già trên 70 tuổi, trẻ em dưới 10 tuổi, người tàn tật,
· Miễn trách nhiệm hình sự đối với người già trên 80 tuổi trừ tội vu cáo và giết người, trẻ em dưới 7 tuổi.
+ Thực hiện chế độ nghiễn ngục để giải quyết án tồn động

c. Pháp luật nhà Đường

- Hình thức pháp luật chủ yếu trong giai đoạn này là: luật, lệnh, cách, thức.
+ Luật: là dựa theo đó mà định tội và xử phạt.
+ Lệnh:
+ Cách: quy tắc hành chính làm việc hàng ngày của các quan trong bộ máy nhà nước.
+ Thức: là thể thức các loại công văn, giấy tờ.
Trong đó, luật là hình thức chủ yếu của pháp luật, tuy nhiên những chiếu chỉ của vua trên thực tế mới có hiệu lực pháp lý tối cao.
- Thực hiện chủ trương “An nhân ninh quốc” (nhân dân yên ổn, đất nước thái bình) và “Ước pháp tỉnh hình” (pháp luật đơn giản, hình phạt nhẹ)
- Hoạt động lập pháp đời Đường tập trung vào 4 đời vua: Cao Tổ, Thái Tông, Cao Tông, Huyền Tông.
+ Đường Cao Tổ ban hành bộ luật Vũ Đức gồm 500 điều, ngoài ra còn có 30 quyển Lệnh, 14 quyển Thức.
+ Đường Thái Tông dựa trên bộ luật Vũ Đức, chỉnh sửa bổ sung thành bộ luật Trinh Quán, cũng gần 500 điều, ngoài ra còn cho ban hành 60 quyển Lệnh, 18 quyển Cách, 20 quyển Thức.
+ Thời Đường Cao Tông, Tướng quốc Trương Tôn Vô Kỵ hệ thống hoá luật thành bộ luật “Vĩnh Huy”. Bộ luật này bắt đầu xây dựng từ năm 624, qua nhiều lần sửa chữa, soạn thảo lại và hoàn thành vào năm 653. Về hình thức, bộ luật thành luật, lệnh, cách, thức, gồm 12 chương được thể hiện hết sức cô đọng nhưng khó hiểu, khó thực hiện. Do đó, sau này ban hành thêm văn bản để hướng dẫn thi hành, gọi là Luật Sớ. Đến đời Nguyên gọi là “Đường Luật Sớ Nghị” (hay còn gọi là “Đường Luật Thư Nghĩa”).
+ Đời Vua Đường Huyền Tông cho chỉnh sửa bộ luật này nhiều lần và năm 737, văn bản hoàn chỉnh được ban hành. Đây là bản mà ngày nay chúng ta còn biết đến, gồm 502 điều, chứa đựng các quy định về hộ, hôn, điền sản, hình luật, thể thức, hành chính… Bộ luật được sắp xếp theo từng chương mục hợp lý, tương ứng với đối tượng điều chỉnh của chúng. Các điều khoản đều được thể hiện dưới dạng luật hình nhưng so với pháp luật của các triều đại trước thì hình phạt mang tính chất khoan hồng, nhân đạo hơn ( bãi bỏ những hình phạt tàn khốc như lăng trì (xẻo từng miếng thịt), liệt (xé xác) và định tội có phần nhẹ hơn). Năm loại hình phạt quy định là: xuy, trượng, đồ, lưu, tử (gồm 2 bậc: trảm và giảo)

d. Pháp luật đời Tống

- Thời kỳ này có bộ “Tống Hình Thống” là phiên bản của “Đường Luật Sớ Nghị” (tập hợp các các quy phạm pháp luật hình sự từ đời Đường năm thứ 2 đến đời Tống năm thứ 3 – khoảng 150 năm)
- Đời Tống còn áp dụng “Lệ”.
- Năm 1069, tống thần tông cử vương an thạch làm tể tướng. Trong cương vị của mình, vương an thạch thực hiện Biến pháp, gồm các đạo luật:Luật nông điền thủy lợi, Luật thanh miêu, Luật miễn dịch, Luật phương điền quân thuế, Luật thị dịch, Luật quân thâu, Luật bảo giáp, Luật trí tướng, Luật mơ quân khi giám. Nội dung của biến pháp có thể tóm tắc trong câu “ lí tài, chỉnh quân, phú quốc, cường binh”, nghĩa là làm cho dân giàu nước mạnh. Tuy nhiên, biến pháp của vương an thạch chỉ được thực hiện trong trong đời vua tống thần tông, sau đó, bị bãi bỏ.

e. Pháp luật nhà Nguyên

- Năm 1291, Hốt Tất Liệt ban hành “Chí Nguyên Tân Cách” đến năm 1323 có bộ “Đại Nguyên Thống Chế”.
- Pháp luật nhà Nguyên thực hiện chính sách kỳ thị và áp bức dân tộc (người Hán phạm tội sẽ bị xử nặng hơn người Mông Cổ; người Mông Cổ đánh người Hán thì người Hán không có quyền đánh lại, nếu đánh lại thì người Hán sẽ bị xử phạt rất nặng, có thể là xử tử).

f. Pháp luật nhà Minh

- Nhà Minh ban hành “ Luật Đại Minh” và “Vấn Hình Điều Lệ” (quy định việc dùng lệ để bổ sung những điều luật còn thiếu sót)
- Ngoài ra, minh thành tổ còn ban hành “Tổ huấn”, và răn dạy các vua đời sau không được sửa đổi, thay thế.

g. Pháp luật nhà Thanh

- Ngay từ thời Thanh Thế Tổ đã ban hành “Đại Thanh Luật”. Đến đời Càn Long năm thứ 5 nó được tu chỉnh lại và có tên là “Đại Thanh Luật Lệ” bao gồm 1412 điều. Bộ luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực như quan hệ ruộng đất, quan hệ hôn nhân gia đình, thừa kế, mua bán… và tất cả những vấn đề này đều áp dụng chế tài hình sự.
- Pháp luật nhà Thanh thực hiện chính sách phân biệt đối xử giữa người Mãn Thanh và người Hán (người Mãn Thanh phạm tội được xét xử ở cơ quan riêng, vào nhà ngục riêng, nếu phạt đánh bằng trượng thì thay bằng đánh roi…)
- Ngoài ra, các vua nhà Thanh còn ban hành những bộ Hội điển (pháp điển hành chính nhà nước) như: Khang Hi Hội Điển, Càn Long Hội Điển, Gia Khánh Hội Điển…

2. Những đặc trưng của pháp luật phong kiến Trung Quốc

a. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình

- Từ thời Tây Chu, lễ đã dần dần trở thành một thể chế chính trị, hổ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị – phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dụng lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt, trong triều đại nhà Tần, Tần Thuỷ Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kỳ này rất mờ nhạt.
- Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lý nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ – nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì hình dùng các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ thì mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì.
- Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến trung quốc áp dụng các nguyên tắc:
+ Đức chủ hình phụ
+ Lễ pháp tịnh dụng
+ Và sử dụng nguyên tắc “Tam cương ngũ thường” của nho gia làm chủ đạo.
- Tuy nhiên việc dùng lễ đã gây ra sự áp dụng pháp luật không thống nhất; xuất hiện hiện tượng “Tội đồng luận dị” (tội giống nhau nhưng lý luận khác đi dẫn đến hình phạt cũng khác nhau).các quan lại tùy tiện trong quá trình xét xử, có điều kiện phát sinh tiêu cực.

b. Pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức.

- Nội dung của học thuyết pháp trị:
+ Pháp: phải có hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch, hợp lý, ổn định,ban hành cho khắp dân chúng biết; phải thi hành pháp luật nghiêm minh, triệt để, “chí công vô tư” không khoan dung người mình yêu, không khắc nghiệt người mình ghét.
+ Thế: ở đây, thuyết pháp trị sử dụng nội dung “chính danh” của nho giáo, theo đó, vua phải làm tròn phận sự của mình, các quan lại dân chúng, tuỳ theo danh phận của mình mà làm tròn công việc của mình. Trong đó, chỉ có vua mới là người có thế để cai trị thiên hạ.
+ Thuật: phương pháp, thủ đoạn cai trị, nó bao gồm hai nội dung: bổ nhiệm và khảo hạch (kiểm tra, thưởng phạt)

- Nội dung của học thuyết Đức trị: (là nội dung chủ yếu của Nho giáo)
+ Theo Khổng Tử, pháp luật chỉ làm người ta sợ mà không dám làm điều ác; khi có thể dấu được hành vi phạm tội, khi có thể tránh được sự trừng phạt thì kẻ xấu vẫn làm điều ác. Nếu dùng đức trị mà cai trị dân, khi biến quyền lợi của giai cấp phong kiến thành quyền lợi của dân, thì họ sẽ không vì sợ pháp luật nhưng vì sợ xấu hổ trước người khác, sợ lương tâm cắn rứt mà không còn phạm tội nữa.
+ Thực hành đức trị, giai cấp phong kiến dưa những lợi ích, những trật tự xã hội trở thành quy tắc xử sự hàng ngày của mọi người, thành nghĩa vụ của người dân. Do đó, nó là phương tiện lừa bịp của giai cấp thống trị: nó khiến cho kẻ áp bức bóc lột dân lại trở thành ân nhân của người dân.
+ Cũng theo Khổng Tử, dức trị muốn đạt hiệu quả cao phải đi đôi với lễ trị. Nghĩa là đạo đức sẽ được củng cố bằng những lễ nghi, cách nói năng, ăn mặc, cư xử trong cuộc sống…

- Tử đời Hán trở đi, Đức trị giữa vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội cũng như trong chính sách cai trị của nhà nước. Đến đời Đường, Đức trị của Nho giáo còn được bổ sung thêm thuyết Nhân trị của Phật giáo. Nhân trị ở đây là lòng từ bi, cứu nhân độ thế. Đến đời Tống, Minh sự suy yếu của đạo đức nho giáo được biểu hiện qua sự suy thoái của triều đại, một số học giả muốn khôi phục lại học thuyết pháp trị nhưng không thành. Đến cuối đời Thanh, nho giáo cũng bị phê phán kịch liệt.

Tóm lại, trong suốt thời kỳ phong kiến Trung Quốc đức trị và pháp trị đã cùng tồn tại với nhau, tương hổ nhau. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ ảnh hưởng của hai học thuyết này có khác nhau. Nhìn chung thì nho giáo giữ vị trí thượng tôn, pháp trị vẫn được áp dụng nhưng không thể hiện một cách công khai.

II. PHÁP LUẬT PHONG KIẾN NHẬT BẢN

1. Công tác ban hành pháp luật

- Sau cải cách Taica, người Nhật mới bắt đầu soạn ra luật pháp. Pháp luật của Nhật Bản bị ảnh hưởng rất nhiều từ pháp luật Trung Quốc, chủ yếu của thời Tùy, Đường.
- Về hình thức, pháp luật Nhật Bản cũng gồm 4 loại: Ritsu, Ruô, Kyaku, Shiki, tương ứng với luật, lệnh, cách, thức của Trung Quốc. Có thể coi đó là luật hình sự (Ristu), luật dân sự và hành chính (Ryô) và một loạt các quy định khác (Kyaku và Shikki).
- Bộ luật đầu tiên của Nhật Bản là bộ luật 17 điều do Sôtôcư ban hành vào năm 104, bộ luật này đặt nền tảng cho việc xây dựng một thiết chế nhà nước phong kiến theo hình thức chính thể quân chủ (điều 12: trong nước không thể nào có 2 vua, người dân không lẽ nào thờ 2 chủ. Trăm họ chỉ là thần dân của Thiên Hoàng. Thuế là phải nộp cho vua để lo việc nước. Phu dịch là để kiến tạo quốc gia.)
- Năm 622, Thiên Hoàng ban hành một bộ luật, nhưng bộ luật này không còn nữa, chúng ta biết đến nó qua các tư liệu lịch sử.
- Năm 701, bộ luật Taihô Risư Riô được soạn thảo và ban hành và được chỉnh sửa, bổ sung vào năm 718. Bộ luật này gồm 2 phần: một phần luật (Ristu) ấn định những thể thức về hình phạt và một phần lệnh (Ryô) quy định những chính sách về quan chế, quân điền, thuế vụ, binh dịch, phu dịch… Bộ luật này được Nhật Bản áp dụng làm nguyên tắc trong tổ chức chính quyền trong mấy thế kỷ sau đó.
- Năm 757, nhà nước lại ban hành bộ luật Yoro. Bộ luật này về hình thức và thuật ngữ thì giống với pháp luật Trung Quốc nhưng về nội dung thì luật hình sự ít khắc khe hơn, luật hành chính thì có những sửa đổi khá nhiều để phù hợp với tình hình của Nhật Bản.
- Đến thời cầm quyền của các Mạc Phủ. Do quan niệm rằng cách ứng xử của mọi người không dựa trên quy phạm pháp luật mà dựa trên quy phạm đạo đức nên chính quyền Mạc Phủ không ban hành luật dưới dạng các bộ luật mà công bố pháp luật dưới dạng các bảng khuyến cáo, dán ở những cột cao, để ở những nơi dễ nhìn thấy trong khắp thành thị và thôn quê. Trong số các bảng này, nổi tiếng nhất là bảng Thân huynh, nó khuyên các thành viên trong gia đình sống hoà hợp, tôi tớ phải trung thành với chủ, chủ phải công minh, mọi người phải cần cù, sống tiết kiệm và phải giữ đúng địa vị trong cuộc sống. Do quyền lực của chính quyền Mạc Phủ trong thời kỳ này lấn át quyền lực của Thiên Hoàng nên pháp luật của Mạc Phủ cũng có giá trị pháp lý cao hơn pháp luật của Thiên Hoàng.

Nhìn chung, pháp luật phong kiến Nhật Bản rất đa dạng. Nó bao gồm nhiếu hệ thống pháp luật như pháp luật của Thiên Hoàng, pháp luật của chính quyền Mạc Phủ, pháp luật của lãnh chúa phong kiến. Trong thời kỳ Mạc Phủ, pháp luật của Tướng quân có hiệu lực pháp lý cao nhất.

2. Các đặc trưng của pháp luật phong kiến Nhật Bản

- Hình luật: áp dụng các hình phạt rất dã man: chém đầu, bêu đầu, moi gan, phanh thây, đâm bằng giáo và nhiều hình thức hành hạ khác cho đến chết (phạm nhân bị chôn sống, mọi người tham dự cuộc hành hình được quyền dùng cưa tre để xẻo thịt phạm nhân trước khi phạm nhân chết; thân thể của phạm nhân được giao cho các võ sĩ (samurai) để thử gươm. Những phạm nhân phạm tội đốt phá, gây hỏa hoạn thì sẽ bị hoả thiêu. Ap dụng hình thức tra tấn cực hình để điều tra, xét hỏi.
- Dân luật và hình luật thời Tôcưgaoa đều tuân thủ nguyên tắc phân chia đẳng cấp xã hội (sĩ, nông, công, thương). Một bộ sưu tập luật thời này có đoạn viết: “Mọi tội phạm đều được trừng phạt theo địa vị xã hội”. Cùng một hành vi phạm tội, nhưng với Samurai thì được xem là hành động quá khích và được giảm án, nếu là thường dân thì sẽ bị xem là tội ác và bị trừng trị rất nặng

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code