- Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Danh ngôn về Bất công
Mong muốn của số đông thường gây ra những điều bất công và bất nhân cho thiểu số, đó là điều được thể hiện trên từng trang lịch sử khắp thế giới. That the desires of the majority of the people are often for injustice and inhumanity against the minority, is demonstrated by every page of the history of the whole world. John Adams
Danh ngôn về Công lý
Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá. Justice is rather the activity of truth, than a virtue in itself. Truth tells us what is due to others, and justice renders that due. Injustice is acting a lie. Horace Walpole
Danh ngôn Tự do
Người không yêu tự do và chân lý, có thể trở thành người mạnh mẽ nhất, nhưng tuyệt đối không thể trở thành người vĩ đại. Voltaire (Pháp)
Sunday, December 29, 2013
BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH
- Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
THƯƠNG HIỆU LÀ GÌ?
CHỈ DẪN GÂY NHẦM LẪN
Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 cũng quy định chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.́ Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.
- Sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình và của doanh nghiệp khác nhằm mục đích cạnh tranh;
- Kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói trên.
Doanh nghiệp vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng:
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan được lưu thông, cung ứng trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Ngoài việc bị phạt tiền nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc cải chính công khai.
TÌM HIỂU HỆ THỐNG THUẬT NGỮ DÙNG ĐỂ CHỈ NGƯỜI LUẬT SƯ TRONG TIẾNG ANH
NGUYỄN TUYẾT NHUNG – NHQUANG & CỘNG SỰ
LITERATURE
<http://www.nclp.org.vn/News/clbluatsu/2005/10/927.aspx>
<http://www.nclp.org.vn/News/clbluatsu/2005/06/779.aspx>
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA LÝ THUYẾT KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN ĐANG ĐƯỢC VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đã có rất nhiều khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển mà cơ sở xuất phát của nó là từ các khái niệm rất cơ bản của lý thuyết kinh tế học hiện đại đã có trên thế giới từ hơn nửa thế kỷ qua (chủ yếu là từ các nước phương Tây đã có nền công nghiệp TBCN phát triển) được du nhập và vận dụng vào công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hơn 20 năm vừa qua. Dưới đây, chỉ đề cập đến một số khái niệm cơ bản nhất đã được chính thức hoá trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta và nhiều công trình khoa học, các sách, báo thông tin, phản ánh. Đó là các khái niệm: tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, và phát triển bền vững
Theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của kinh tế học phát triển, tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt lượng của nền kinh tế của một quốc gia.
Để đo lường kết qủa sản xuất xã hội hàng năm, dùng làm thước đo so sánh quốc tế về mặt lượng của trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, các nước có nền kinh tế thị trường vẫn thường sử dụng 2 loại chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Tổng sản phẩm quốc dân ( Gross National Product, viết tắt là GNP), tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product, viết tắt là GDP). Hai chỉ tiêu này khi sử dụng có tác dụng khác nhau: GNP phản ánh quá trình gia tăng giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đối với các nước có nền kinh tế mở đã khá phát triển, còn GDP phản ánh quá trình gia tăng giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đối với những nước có nền kinh tế khép kín hoặc đã mở nhưng còn chậm phát triển; và do đó cùng dẫn theo mức tăng tương ứng của các chỉ tiêu đó tính theo bình quân đầu người dân. Các chỉ tiêu này phản ánh mức tăng trưởng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của mỗi quốc gia sau một giai đoạn nhất định nào đó được biểu thị bằng chỉ số % (thường là 1 năm).
Theo đó, liên hệ với việc vận dụng vào Việt Nam suốt hơn 20 năm đổi mới vừa qua, chúng ta vẫn sử dụng chỉ số GDP và tương ứng theo GDP/người là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hiện tại của nước ta và thông lệ quốc tế. 2. Phát triển kinh tế
Cũng theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của kinh tế học phát triển: Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so với khái niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế – xã hội, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào phát triển kinh tế – xã hội…
Với nội hàm rộng lớn trên đây, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã đáp ứng được các nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên như đã biết, trong khoảng hơn hai thập niên vừa qua, do xu hứớng hội nhập, khu vực hoá, toàn cầu hoá phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn nên đã nảy sinh nhiều vấn đề dù là ở phạm vi từng quốc gia, lãnh thổ riêng biệt, song lại có ảnh hưởng chung đến sự phát triển của cả khu vực và toàn thế giới, trong đó có những vấn đề cực kỳ phức tạp, nan giải đòi hỏi phải có sự chung sức của cả cộng đồng nhân loại, ví dụ như: môi trường sống, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… Từ đó đòi hỏi sự phát triển của mỗi quốc gia, lãnh thổ và cả thế giới phải được nâng lên tầm cao mới cả về chiều rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển. Thực tiễn đó đã thúc đẩy sự ra đời một khái niệm mới về phát triển mang nội hàm phản ánh tổng hợp hơn, toàn diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế…, đó là khái niệm phát triển bền vững mà sau đây ta sẽ xem xét kỹ hơn. 3. Phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định “phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nền tảng là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), 179 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Hội nghị khuyến nghị từng nước căn cứ vào điều kiện và đặc điểm cụ thể để xây dựng Chương trình nghị sự 21 ở cấp quốc gia, cấp ngành và địa phương. Mười năm sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi), 166 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững. Hội nghị đã khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương, đồng thời tại các nước này đều đã thành lập các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương trình này. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Việt Nam Thái Lan, Singapore, Malaysia…đều đã xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Về phía Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện “Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000″ (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH”. Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Gần đây, Đại hội X (2006) của Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20 năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển kinh tế – xã hội nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó, bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Như vậy là theo từng thang bậc tiến trình phát triển của lý thuyết kinh tế học phát triển hiện đại mà các khái niệm cơ bản nhất của lý thuyết này như đã đề cập ở những nét khái quát nhất trên đây đã cho thấy, cho đến thời điểm này thì phát triển bền vững đã và đang còn là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới đương đại và nội hàm phản ánh của nó là rất rộng lớn, sâu sắc.
HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN (OPTION CONTRACT)
BÁN PHÁ GIÁ
Bán phá giá được định nghĩa trong Khoản 1, Điều VI của GATT 1994: “… bán phá giá là cách hàng hóa của một nước được đưa vào thị trường của nước khác với mức giá thấp hơn giá thị thông thường của hàng hóa, …” Điều 2.1 Hiệp định Chống bán phá giá (ADA) của WTO:
“…một hàng hóa được coi là bị bán phá giá, có nghĩa là được đưa vào thị trường của nước khác ở mức thấp hơn giá trị thông thường, nếu giá xuất khẩu của một hàng hóa được xuất khẩu từ một nước sang một nước khác thấp hơn giá có thể so sánh được, trong điều kiện thương mại thông thường, là giá của hàng hóa tương tự được bán để tiêu dùng tại nước xuất khẩu đó.” Điều 3.1 Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (Pháp lệnh chống bán phá giá):
“Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá trị thông thường…”
Tóm lại, bán phá giá được xác định bằng cách so sánh “giá xuất khẩu” với “giá thông thường’. Bán phá giá xảy ra khi “giá xuất khẩu” thấp hơn “giá thông thường”. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình xác định liệu một nhà xuất khẩu có bán phá giá đến mức gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước tại thị trường nhập khẩu hay không phức tạp hơn nhiều so với việc so sánh giá một cách đơn giản. Để áp dụng được biện pháp chống bán phá giá, Cơ quan điều tra phải trải qua một cuộc điều tra kỹ lưỡng và phải chứng minh được đủ ba điều kiện:
>>> Giai đoạn 1: Thẩm định hồ sơ và ra quyết định điều tra
>>> Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ và ra kết luận điều tra sơ bộ
>>> Giai đoạn 3: Điều tra cuối cùng và ra kết luận cuối cùng
>>> Giai đoạn 4: Áp dụng biện pháp chống bán phá giá và tiến hành rà soát
Sunday, October 13, 2013
TÀI SẢN VÔ HÌNH (Intangible asset) VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH XÁC ĐỊNH (Identifiable intangible assets)
Những cơ sở để ghi nhận tài sản vô hình xác định:
- Tài sản đó phải được xác định và nhận biết một cách cụ thể
- Tài sản đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về tài sản vô hình đã quy định trong chế độ kế toán hiện hành của nước sở tại.
- Tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể chuyển giao tài sản cho bên thứ 2 một cách hợp pháp.
- Phải có bằng chứng đáng tin cậy về sự tồn tại của tài sản đó trong doanh nghiệp
- Những tài sản này thường mang lại lợi ích lớn hơn giá trị của bản thân tài sản đó (tức số chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được tài sản).
- Tài sản vô hình liên quan tới hoạt động Marketing: thương hiệu, nhãn hiệu, logo…
- Tài sản vô hình liên quan tới kỹ thuật công nghệ: giấy đăng ký quy trình sản xuất, giấy đăng ký bản quyền, tài liệu về kỹ thuật công nghê ( những ghi chép trong phòng thí nghiệm, bí quyết kỹ thuật…)
- Những tài sản vô hình liên quan tới nghệ thuật như: Các tác phẩm hay bản quyền tác giả…
- Tài sản vô hình liên quan tới việc xử lý dữ liệu: Những phần mềm máy tính có bản quyền, cơ sở dữ liệu số, Phần mềm kiểm soát mạng tích hợp nội bộ…
- Tài sản vô hình liên quan tới công việc thiết kế kỹ thuật: Kiểu dáng công nghiệp, đăng ký bản quyền sản phẩm, bí quyết thương hiệu, bản vẽ và biểu đồ kỹ thuật, bản thiết kế, chứng nhận quyền sở hữu…
- Tài sản vô hình liên quan tới khách hàng: danh sách khác hàng, các hợp đồng với khách hàng, quan hệ khách hàng…
- Tài sản vô hình về nguồn lực: đội ngũ lao động lành nghề, hợp đồng lai động, hợp đồng liên kết v.v…
Trên thị trường chứng khoán, tài sản vô hình xác định có thể được coi là một trong những nhân tố tác động tới thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp bỏ ra lượng chi phí nhất định cho việc nghiên cứu khoa học để có thể tìm ra một bí quyết mà nhờ đó lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên đáng kể (bí quyết sản xuất nước giải khát Cocacola là một điển hình). Động thái này sẽ làm giá cổ phiếu tăng vì người nắm giữ cổ phiếu có khả năng thu được những khoản lợi tức cao hơn trước.