Showing posts with label THUAT NGU. Show all posts
Showing posts with label THUAT NGU. Show all posts

Sunday, December 29, 2013

BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH

Khái niệm
Bán hàng đa cấp được hiểu là một phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
- Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
- Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.
Doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
- Thứ nhất, yêu cầu người muốn tham gia mạng phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Thứ hai, không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
- Thứ ba, cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Thứ tư, cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
Hình thức xử lý
Doanh nghiệp bán hàng đa cấp sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng nếu thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:
- Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Yêu cầu người muốn tham gia phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Yêu cầu người muốn tham gia phải trả một khoản tiền hoặc trả bất kỳ một khoản phí nào dưới hình thức khoá học, khoá đào tạo, hội thảo, hoạt động xã hội hay các hoạt động tương tự khác để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể thu tiền đối với những loại tài liệu mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp của doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp (sau đây gọi là Nghị định số 110);
- Không cam kết cho người tham gia trả lại hàng hoá và nhận lại Khoản tiền đã chuyển cho doanh nghiệp theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 110.
- Cản trở người tham gia trả lại hàng hoá phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;
- Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
- Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp để dụ dỗ người tham gia bán hàng đa cấp;
- Cung cấp thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hoá để dụ dỗ người tham gia bán hàng đa cấp.
Doanh nghiệp bán hàng đa cấp sẽ bị phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm nêu trên trong trường hợp quy mô hoạt động bán hàng đa cấp diễn ra trong phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc cải chính công khai.

THƯƠNG HIỆU LÀ GÌ?

THANH LOAN
Trong năm qua, báo chí đề cập rất nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề “Thương hiệu” (xây dựng, đăng ký, quảng bá, phát triển, tranh chấp, đánh cắp… thương hiệu). Một chuyện tưởng như không cần bàn tới nhưng hoá ra lại là gốc của mọi khía cạnh khác: đó là: nên hiểu “Thương hiệu” là gì? – Trò chuyện giữa phóng viên DĐDN với ông Phạm Đình Chướng – Cục trưởng Cục Sở hữu công nghiệp.
- Thưa ông pháp luật về sở hữu công nghiệp của nước ta có các quy định về nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý của hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hoá. Gần đây, nhiều người lại nói đến “Thương hiệu”. Có phải đây là một loại đối tượng sở hữu công nghiệp khác chưa được đề cập tới trong Luật sở hữu công nghiệp hay chỉ là một tên gọi khác của một loại đối tượng nào đó đã có quy định trong Luật sở hữu công nghiệp?
Không một văn bản pháp luật nào về sở hữu công nghiệp sử dụng thuật ngữ “Thương hiệu”. Thuật ngữ này chỉ được dùng ở một số bài báo, một số chương trình tivi hoặc được một vài người sử dụng ở một số diễn đàn. Tuy vậy, cũng đã có một số văn bản hành chính của một vài cơ quan quản lý nhà nước sử dụng thuật ngữ này.Thật ra, cái được gọi là “Thương hiệu” nói tới trong các trường hợp trên đây đều không rõ ràng và hoàn toàn không nhất quán. Có thể tạm chia ra làm mấy loại đối tượng được báo chí và một số người gọi là “Thương hiệu” trong thời gian vừa qua như sau: thứ nhất là loại như VINATABA (thuốc lá), Trung Nguyên (cà phê), SAGIANG (bánh phồng tôm), VINAMILK (Sữa), PETRO VIETNAM (dầu khí)…, loại thứ hai: Phú Quốc (nước mắm), Tân Cương (chè), Chợ Đào (gạo), Made in Viet Nam (“xe máy, máy tính thương hiệu Việt Nam”), loại thứ ba: PETRO VIETNAM, VNPT (Tên viết tắt của Tổng công ty Dầu khí; Tổng công ty Bưu chính Viễn thông)…Rõ ràng là, cả ba đối tượng nói trên đều đã được định danh trong các văn bản chính thức của nhà nước, cụ thể là “nhãn hiệu” cho loại thứ nhất, “chỉ dẫn địa lý” cho loại thứ hai và “Tên thương mại” (đúng hơn là một phần của Tên thương mại) cho loại thứ ba. Nghĩa là, cái được gọi là “Thương hiệu” không phải là một đối tượng mới nào cả mà chỉ là dùng một cái tên (thuật ngữ) khác để chỉ ba loại đối tượng xác định.
- Thế thì tại sao phải dùng một thuật ngữ khác như vậy? Điều đó có lợi gì không cho việc nhận thức và thực thi pháp luật cũng như cho các hành động cụ thể liên quan đến cái được gọi là “Thương hiệu” đó?
Tôi tin rằng không có ai trong số những người đã và sẽ sử dụng thuật ngữ “Thương hiệu” phân tích và kết luận rằng thuật ngữ đó là tốt hơn các thuật ngữ đang được sử dụng trong các văn bản pháp luật. Tôi cho rằng lý do của việc sử dụng thuật ngữ này chủ yếu là do thuật ngữ đó có vẻ tiện lợi hơn, dễ thuộc hơn. Khi thấy một người dùng, nhiều người khác có thể thuộc và dùng theo được ngay.Tuy nhiên, sự tiện lợi nói trên lại hàm chứa sự thiếu chính xác dễ dẫn đến sai lạc. Chẳng hạn, không ít người cổ vũ các DN đăng ký “Thương hiệu” ra nước ngoài trong khi không chỉ rõ cái được gọi là “Thương hiệu” cần phải đăng ký đó là cái gì. Khi mà “Thương hiệu” được khuyến cáo cần đăng ký là cụm từ “Made in Viet Nam” thì sự khuyến cáo làm cho người được khuyến cáo lạc đường bởi vì đó là “chỉ dẫn địa lý” hoặc “chỉ dẫn xuất xứ” của hàng hoá, và bởi vì không một nước nào đòi hỏi phải đăng ký đối tượng đó. Nói chung, cả ba nhóm đối tượng nói trên (nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý) đều có nhiều khía cạnh khác nhau cả về chức năng, bản chất và cách đối xử. Sử dụng một chỉ dẫn cho loại đối tượng này để nói chung cho cả loại đối tượng khác sẽ gây ra nguy cơ sai lạc như đã nói trên.Xin nói thêm về tên thương mại và thương hiệu trong tên thương mại. Như ta đã biết, tên DN được gọi là tên thương mại. Một tên thương mại tốt là tên thương mại xác định rõ ràng loại hình DN, lĩnh vực kinh doanh và phải có khả năng phân biệt cao. Muốn vậy, tên thương mại phải bao gồm phần mô tả (loại hình, lĩnh vực) và phần phân biệt. Chính phần phân biệt này là thương hiệu của DN. Khi xưng hô, giao dịch, DN và bạn hàng có thể chỉ sử dụng phần phân biệt này. Nếu không có phần phân biệt, không những tên doanh nghiệp dễ bị lẫn lộn với doanhg nhiệp khác mà còn làm cho việc xưng hô, giao dịch trở nên kém thuận lợi. Khi đó lại phải đi đặt thêm một “tên hiệu” khác mà chúng ta hay gọi là “tên tắt” hay “tên giao dịch”. Ví dụ: “Tcty Bưu chính Viễn thông Việt Nam” không có phần phân biệt vì “Tcty Bưu chính Viễn thông” chỉ là phần mô tả (“Tcty”: loại hình Cty, “Bưu chính Viễn thông”: lĩnh vực hoạt động) còn “Việt Nam” không đủ khả năng phân biệt. Vì lý do đó, DN này phải có thêm một dấu hiệu khác là “VNPT”. Tôi tin chắc rằng không phải ai cũng biết “VNPT” là Tcty Bưu chính Viễn thông VN! Trong trường hợp này, “VNPT” là thương hiệu của Tcty Bưu chính Viễn thông VN.Khác với trường hợp trên, “Cty bóng đèn phích nước Rạng Đông” lại là tên thương mại có bao gồm phần phân biệt (Rạng Đông) và đây chính là thương hiệu của cty này. Khi giao dịch, người ta có thể gọi là Cty Rạng Đông hoặc Rạng Đông là đủ hiểu.
- Gần đây, báo chí đã đề cập tới việc các nhãn hiệu của Việt Nam bị “đánh cắp”, bị “mất” ở thị trường nước ngoài như Vinataba, Petro Vietnam Cũng được biết rằng các DN có các nhãn hiệu đó đã tiến hành các biện pháp nhằm đòi lại nhãn hiệu. Xin ông cho biết Kết quả của các biện pháp đó cho tới nay ra sao?
Trước hết, cần nói rằng không nhất thiết phải tiến hành các hoạt động nhằm “đòi lại” ở tất cả các nơi mà nhãn hiệu của mình bị người khác đăng ký. ở những nước không phải là thị trường mà DN quan tâm đến hoặc DN không có ý định hoạt động, việc “đòi lại” như vậy là vô nghĩa. Cũng giống như trường hợp doanh nghiệp định đăng ký nhãn hiệu: không phải bất cứ thị trường nào cũng phải đăng ký. Mặt khác, không nhất thiết phải tiến hành “đòi lại” theo nghĩa là kiện tụng bởi vì có thể có biện pháp khác. Vinataba, Petro Vietnam cũng đang hành động như vậy. Các cty này đã và đang phân tích việc chọn lựa nơi và cách tiến hành một cách phù hợp nhất. Cho tới nay, Tcty thuốc lá Việt Nam đã thành công trong việc huỷ bỏ đăng ký tại Campuchia nhãn hiệu “Vinataba” dưới tên một cty của Indonesia.
- Khi xảy ra các tình huống như Vinataba, Petro Vietnam , Cục Sở hữu công nghiệp có giúp họ can thiệp với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài để giành lại nhãn hiệu hay không?
Thực tế, trong trường hợp Vinataba, Cục Sở hữu công nghiệp có trao đổi với một vài cơ quan sở hữu công nghiệp nước ngoài để tìm hiểu khả năng tiến hành các biện pháp huỷ bỏ đăng ký của phía bên kia. Nói chung, trình tự để huỷ bỏ một đăng ký thường được tiến hành trước Toà án. Sau khi Toà án ra phán quyết rằng một đăng ký nhãn hiệu phải huỷ bỏ thì Cơ quan sở hữu công nghiệp sẽ thực hiện việc huỷ bỏ đó như là chấp hành một quyết định tư pháp. Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia của nước sở tại không đóng vai trò gì đáng kể trong trình tự này.
- Theo dõi các cuộc thảo luận, trao đổi trên báo chí gần đây, có thể thấy rằng các DN VN chưa chú trọng đúng mức đến vấn đề nhãn hiệu cho các sản phẩm xuất khẩu. Các kết luận và lời khuyên được đưa ra là mọi DN xuất khẩu hãy nhanh chóng đăng ký nhãn hiệu của mình. Liệu lời khuyên như vậy có đúng không, có cần phải lưu ý cái gì không thưa ông?
Về mặt nguyên tắc, lời khuyên nói trên là đúng. Mặc dầu vậy, cần phải hiểu lời khuyên đó một cách tổng quát.Để xây dựng và củng cố vị thế ở thị trường xuất khẩu, tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm, không thể tiếp tục duy trì tình trạng sản phẩm xuất khẩu không có nhãn hiệu hoặc mang nhãn hiệu của người khác. Cần phải tiến tới có nhãn hiệu cho tất cả các sản phẩm, dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, không phải đăng ký xong nhãn hiệu là mọi việc đều xong. Một nhãn hiệu đã đăng ký phải được bảo vệ, chăm sóc, bồi dưỡng lâu dài. Giá trị của nhãn hiệu phản ánh uy tín, ảnh hưởng và giá trị của sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu, do đó các hoạt động “hậu đăng ký” mới là điều quan trọng. Vì vậy, không nên thổi phồng quá mức ý nghĩa của việc đăng ký nhãn hiệu để ai ai cũng đăng ký nhãn hiệu mà thiếu một chiến lược đầy đủ về việc xây dựng và phát triển một nhãn hiệu.Cũng cần phải lưu ý rằng, nếu trong thị trường nội địa mỗi một doanh nghiệp có một hay nhiều nhãn hiệu cho một loại sản phẩm thì khi xuất khẩu, có thể nhiều DN phải hợp sức dưới một nhãn hiệu chung. Điều này là cần thiết, nhất là cho các DN nhỏ – thậm chí các DN vừa – trong giai đoạn mới thâm nhập một thị trường mới. ở giai đoạn mới phát triển thị trường, một doanh nghiệp nhỏ đơn độc với một nhãn hiệu sẽ gặp phải khó khăn về chi phí cũng như khả năng tiến hành thủ tục cho việc đăng ký và theo dõi việc xâm phạm, vi phạm của các đối thủ. Nhiều DN với một nhãn hiệu tập thể sẽ khắc phục được khó khăn đó và tăng sức mạnh cạnh tranh. Sau khi đã thiết lập xong vị thế với nhãn hiệu tập thể đó, mỗi DN có thể sẽ phát triển nhãn hiệu riêng của mình cùng với và dưới ô nhãn hiệu tập thể nói trên Điều lưu ý thứ ba là, không chỉ có nhãn hiệu mới quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Các đối tượng sở hữu công nghiệp khác – nhất là tên gọi xuất xứ hàng hoá và chỉ dẫn địa lý nói chung cũng có vai trò không kém. Với các đối tượng này, cũng cần có sự hợp sức của các DN như đối với nhãn hiệu hàng hoá
- Xin cảm ơn ông!
SOURCE:

CHỈ DẪN GÂY NHẦM LẪN

Khái niệm
Theo Luật Cạnh tranh 2004, chỉ dẫn gây nhầm lẫn được hiểu là chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh. Luật Cạnh tranh cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 cũng quy định chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.́ Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.
Hình thức xử lý
Theo quy định của Điều 30 Nghị định số 120, doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng trong các trường hợp sau:
- Sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình và của doanh nghiệp khác nhằm mục đích cạnh tranh;
- Kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói trên.
Doanh nghiệp vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng:
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan được lưu thông, cung ứng trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
Ngoài việc bị phạt tiền nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc cải chính công khai.

TÌM HIỂU HỆ THỐNG THUẬT NGỮ DÙNG ĐỂ CHỈ NGƯỜI LUẬT SƯ TRONG TIẾNG ANH

NGUYỄN TUYẾT NHUNG – NHQUANG & CỘNG SỰ

Trong bối cảnh toàn cầu hoá khi sự giao lưu giữa các hệ thống pháp luật ngày càng trở nên mạnh mẽ, việc chúng ta, một nước theo hệ thống luật thường pháp (civil law) đang dần làm quen và và tiến tới hiểu rõ hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia theo hệ thống luật thông pháp (common law) là điều tất yếu. Để có một cái nhìn toàn diện về hệ thống luật của một quốc gia, cần phải tìm hiểu cơ cấu xã hội luật sư trong quốc gia đó. Tuy nhiên trong bài viết này, tôi chỉ mong muốn giới thiệu một số thuật ngữ trong tiếng Anh dùng để chỉ người luật sư ở các nước thông pháp, có đối chiếu với các thuật ngữ trong tiếng Việt nhằm bước đầu đưa ra một cái nhìn tổng thể về xã hội luật sư của các quốc gia này. Đồng thời cũng hi vọng rằng bài viết này sẽ góp phần giúp các luật sư, các dịch giả và những người có liên quan hiểu rõ và sử dụng chính xác hơn các thuật ngữ chỉ người luật sư trong tiếng Anh.
Nói một cách tổng quát, “luật sư” được gọi bằng thuật ngữ chung nhất là lawyer hoặc legal practitioner (người hành nghề luật) hay cổ hơn nữa là men of the court. Xét theo tính chất nghề nghiệp (chức năng), có thể phân loại luật sư thành luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn. Xét theo lĩnh vực hành nghề thì có luật sư hình sự, luật sư dân sự, luật sư thương mại, luật sư hôn nhân & gia đình, trẻ em v.v.. Ở Việt Nam sự phân định này là chưa rõ rệt, hầu như không có sự giới hạn loại hình cũng như lĩnh vực hoạt động chuyên môn của luật sư cũng như văn phòng luật sư (trừ các công ty luật hợp danh thì không được tham gia tranh tụng). Tuy nhiên ở các nước theo hệ thống luật thông pháp (common law), nghề luật sư đã có cả một bề dày lịch sử, và xã hội luật sư được phân hoá và phân cấp rất sâu và rõ ràng. Có thể thấy rõ sự phân hoá này qua hệ thuật ngữ chỉ người luật sư của các nước này.
Trước hết, chúng ta hãy cùng xem xét các thuật ngữ chỉ người luật sư phân chia theo tính chất nghề nghiệp. Như đã nói ở trên, ở Việt Nam nếu dựa trên tính chất nghề nghiệp, ta có luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn. Ở Anh và Australia, họ dùng các thuật ngữ chuyên biệt là barristersolicitor. Hai thuật ngữ này xuất hiện ở Anh khoảng cuối thế kỉ 16 đầu thế kỉ 17 khi nhu cầu về khiếu kiện dân sự bùng nổ (Wilfrid Prest, tr. 20). Vậy, thế nào là một barrister và thế nào là một solicitor? Việc phân biệt nội hàm khái niệm của hai thuật ngữ này đã tốn khá nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu vì ranh giới giữa hai khái niệm này rất mong manh. Tuy nhiên, theo Wilfrid Prest thì có thể phân biệt một cách tương đối dựa trên chức năng của người luật sư. Barrister (còn gọi là advocate ở Scotland và Ấn Độ) là những luật sư chuyên đảm nhiệm việc tranh tụng tại toà, còn solicitor là những luật sư chuyên tư vấn pháp lí, lo chuẩn bị hồ sơ và thực hiện các thủ tục giấy tờ pháp lí (Wilfrid Prest, tr. 18). Đối chiếu sang tiếng Việt, barrister chính là luật sư tranh tụng còn solicitor chính là luật sư tư vấn. Tuy nhiên, trên thực tế, một luật sư có thể kiêm hai chức năng tranh tụng và tư vấn. Điều này cũng tương tự như ở Việt Nam.
Ở Mỹ, người ta lại dùng các thuật ngữ attorney để chỉ người luật sư. Thuật ngữ attorney có gốc là một từ tiếng Pháp à tourner, có nghĩa là thay mặt, nhân danh ai đó (Morris, Cook, Greyke, Holloway, tr. 22). Các attorney ở Mỹ có hai loại là agentpleader. Tương tự như các solicitor của Anh, các agent đại diện cho các đương sự tiến hành các thủ tục pháp lí thông thường, đặc biệt là các thủ tục hành chính cần thiết cho việc khởi kiện hoặc theo kiện tại toà dân sự hoặc hình sự. Còn các pleader, còn gọi là counsel at law hay councellor hay councel, tương tự như các barrister ở Anh và Australia, chuyên tham gia tranh tụng tại toà. Cũng có thể chia attorney thành hai cấp độ là attorney-in-factattorney-at-law. Attorney-in-fact là các đại diện pháp lý cho cá nhân hoặc pháp nhân trong các hoạt động pháp lí liên quan tới kinh doanh, tài sản hoặc các vấn đề cá nhân, và thường hoạt động không cần phải có giấy phép của chính phủ. Ngược lại, các attorney-at-law là các luật sư đã được cấp chứng chỉ hành nghề, có quyền đại diện cho thân chủ tham gia vào các hoạt động pháp lí trong và ngoài toà án cũng như cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lí. Do vậy có thể hiểu attorney-in-fact là các đại diện theo uỷ quyền còn attorney-at-law là các luật sư hành nghề. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng ở Mỹ thuật ngữ attorney còn dùng để chỉ công tố viên ở các cấp trong các cụm thuật ngữ county attorney (công tố viên của hạt), district attorney (công tố viên của bang), và attorney general (công tố viên liên bang).
Xét trên khía cạnh đối tượng khách hàng thì tồn tại cả một khoảng cách lớn giữa hệ thuật ngữ chỉ người luật sư của các nước thông pháp và hệ thuật ngữ tương ứng của Việt Nam. Ở các nước thông pháp, xét theo đối tượng khách hàng, từ lâu đã có in-house lawyer – luật sư riêng, trong đó bao gồm family lawyer – luật sư gia đình và corporate lawyer – luật sư công ty. Các corporate lawyer được định nghĩa là các luật sư đại diện cho một công ty tham gia vào các hoạt động pháp lí liên quan tới công ty đó (bao gồm cả tranh tụng và tư vấn). Tuy nhiên, ở Việt Nam có một thực tế là các gia đình và doanh nghiệp chưa có thói quen và nhu cầu thuê luật sư riêng cho mình. Vì thế cụm thuật ngữ “luật sư riêng” vẫn chưa được phổ biến. Mặc dù rằng rất nhiều doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có hẳn một phòng pháp chế chuyên lo việc pháp lý của công ty, nhưng những người làm tại phòng pháp chế này phần nhiều không phải là luật sư. Nên họ không phải là những in-house lawyer. Gần đây ở Việt Nam chúng ta thấy xuất hiện khái niệm luật sư kinh doanh. Theo định nghĩa của Đỗ Trọng Hải thì hoạt động chủ yếu của luật sư kinh doanh là cung cấp dịch vụ pháp lý hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp cho các doanh nghiệp và các đơn vị kinh doanh trong quá trình hoạt động của các tổ chức đó. Như vậy, xét trên góc độ đối tượng khách hàng thì cả corporate lawyerluật sư kinh doanh đều làm việc cho các doanh nghiệp và đơn vị kinh doanh. Cho nên, theo tôi thuật ngữ tiếng Việt tương đương của thuật ngữ corporate lawyer chính là luật sư kinh doanh. Nhưng vì thuật ngữ luật sư kinh doanh không nhấn mạnh được đối tượng khách hàng của người luật sư như thuật ngữ corporate lawyer, nên theo tôi, tương đương chính xác nhất của thuật ngữ này trong tiếng Việt phải là luật sư công ty.
Cuối cùng, khi xem xét các thuật ngữ chỉ người luật sư từ khía cạnh lĩnh vực hoạt động, chúng ta lần nữa thấy được sự đi sau của nghề luật sư Việt Nam so với nghề luật sư các nước phát triển trong việc chuyên môn hoá xã hội luật sư. Hiện nay, phần nhiều các luật sư Việt Nam sử dụng thuật ngữ chỉ về công việc của mình một cách chung chung là “luật sư” mà chưa chỉ rõ tính chuyên môn trong hành nghề. Trong khi đó ở các nước thông pháp (common law), khi nhìn vào hệ thuật ngữ chỉ luật sư, có thể thấy độ phân hoá luật sư theo lĩnh vực của họ rất sâu rộng. Họ có từ criminal lawyer (luật sư hình sự), economic lawyer (luật sư kinh tế), commercial lawyer (luật sư thương mại), construction lawyer (luật sư xây dựng), labor lawyer (luật sư lao động), contract lawyer (luật sư hợp đồng) đến tax lawyer (luật sư thuế), environmental lawyer (luật sư môi trường), intellectual property lawyer hay patent lawyer (luật sư sở hữu trí tuệ), real estate and housing lawyer (luật sư địa ốc), bankcruptcy lawyer (luật sư chuyên về phá sản), divorce lawyer (luật sư chuyên về li hôn), v.v.
Tóm lại, trên đây là một số đúc rút về các thuật ngữ dùng để biểu đạt khái niệm người luật sư trong tiếng Anh. Có thể thấy rằng, sự phát triển của nghề luật ở các quốc gia theo hệ thống thông pháp cũng như cơ cấu của xã hội luật sư của họ đã được phản ánh rất rõ trong sự phát triển của ngôn ngữ, cụ thể là ở hệ thuật ngữ chỉ người luật sư của các quốc gia đó. So sánh với hệ thuật ngữ chỉ người luật sư trong tiếng Việt, hệ thuật ngữ của họ rõ ràng là phong phú và toàn diện hơn rất nhiều, phản ánh chính xác tương quan về lịch sử và mức độ phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam so với thế giới, đặc biệt là các nước theo hệ thống luật thông pháp.

LITERATURE

Morris, Cook, Greyke, Geddes, Holloway Laying down the Law: the foundations of legal reasoning, research and writing in Australia (4th ed) Butterworths, 1997. p. 22.
Wilfrid Prest A career in law Cambridge, 1986, p. 18. The rise of the Lawyers.
Henry Cambell Black Black’s Law Dictionary (4th ed) St. Paul Minn West Publishing Company, 1951, p. 75, 164, 191, 41/8, 1564.
Đỗ Trọng Hải, Bước khởi đầu của luật sư kinh doanh ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập Pháp, 2005.
<http://www.nclp.org.vn/News/clbluatsu/2005/10/927.aspx>
Nghề luật sư kinh doanh ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập Pháp, 2005.
<http://www.nclp.org.vn/News/clbluatsu/2005/06/779.aspx>
Attorney, Columbia University Press
<http://www.answers.com/attorney>
——————————————————–
TRÍCH DẪN TỪ:

MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA LÝ THUYẾT KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN ĐANG ĐƯỢC VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

TS. TRẦN ANH PHƯƠNG
Trong hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam vừa qua đã và đang có khá nhiều các khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển được vận dụng vào thực tiễn nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế cũng như trong nhận thức của chúng ta chưa hẳn đã có sự thống nhất về nội hàm khoa học và cơ sở thực tiễn của các khái niệm đó. Bài viết này sẽ góp phần trao đổi thêm với bạn đọc những thông tin cơ bản về một số khái niệm đó và thực tiễn vận dụng vào nước ta.
Đã có rất nhiều khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển mà cơ sở xuất phát của nó là từ các khái niệm rất cơ bản của lý thuyết kinh tế học hiện đại đã có trên thế giới từ hơn nửa thế kỷ qua (chủ yếu là từ các nước phương Tây đã có nền công nghiệp TBCN phát triển) được du nhập và vận dụng vào công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hơn 20 năm vừa qua. Dưới đây, chỉ đề cập đến một số khái niệm cơ bản nhất đã được chính thức hoá trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta và nhiều công trình khoa học, các sách, báo thông tin, phản ánh. Đó là các khái niệm: tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, và phát triển bền vững
1. Tăng trưởng kinh tế
Theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của kinh tế học phát triển, tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt lượng của nền kinh tế của một quốc gia.
Để đo lường kết qủa sản xuất xã hội hàng năm, dùng làm thước đo so sánh quốc tế về mặt lượng của trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, các nước có nền kinh tế thị trường vẫn thường sử dụng 2 loại chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Tổng sản phẩm quốc dân ( Gross National Product, viết tắt là GNP), tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product, viết tắt là GDP). Hai chỉ tiêu này khi sử dụng có tác dụng khác nhau: GNP phản ánh quá trình gia tăng giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đối với các nước có nền kinh tế mở đã khá phát triển, còn GDP phản ánh quá trình gia tăng giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đối với những nước có nền kinh tế khép kín hoặc đã mở nhưng còn chậm phát triển; và do đó cùng dẫn theo mức tăng tương ứng của các chỉ tiêu đó tính theo bình quân đầu người dân. Các chỉ tiêu này phản ánh mức tăng trưởng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của mỗi quốc gia sau một giai đoạn nhất định nào đó được biểu thị bằng chỉ số % (thường là 1 năm).
Theo đó, liên hệ với việc vận dụng vào Việt Nam suốt hơn 20 năm đổi mới vừa qua, chúng ta vẫn sử dụng chỉ số GDP và tương ứng theo GDP/người là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hiện tại của nước ta và thông lệ quốc tế.
2. Phát triển kinh tế
Cũng theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của kinh tế học phát triển: Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so với khái niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế – xã hội, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào phát triển kinh tế – xã hội…
Với nội hàm rộng lớn trên đây, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã đáp ứng được các nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên như đã biết, trong khoảng hơn hai thập niên vừa qua, do xu hứớng hội nhập, khu vực hoá, toàn cầu hoá phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn nên đã nảy sinh nhiều vấn đề dù là ở phạm vi từng quốc gia, lãnh thổ riêng biệt, song lại có ảnh hưởng chung đến sự phát triển của cả khu vực và toàn thế giới, trong đó có những vấn đề cực kỳ phức tạp, nan giải đòi hỏi phải có sự chung sức của cả cộng đồng nhân loại, ví dụ như: môi trường sống, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… Từ đó đòi hỏi sự phát triển của mỗi quốc gia, lãnh thổ và cả thế giới phải được nâng lên tầm cao mới cả về chiều rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển. Thực tiễn đó đã thúc đẩy sự ra đời một khái niệm mới về phát triển mang nội hàm phản ánh tổng hợp hơn, toàn diện hơn tất cả các khái niệm về tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế…, đó là khái niệm phát triển bền vững mà sau đây ta sẽ xem xét kỹ hơn.
3. Phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định “phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nền tảng là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), 179 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Hội nghị khuyến nghị từng nước căn cứ vào điều kiện và đặc điểm cụ thể để xây dựng Chương trình nghị sự 21 ở cấp quốc gia, cấp ngành và địa phương. Mười năm sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi), 166 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững. Hội nghị đã khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương, đồng thời tại các nước này đều đã thành lập các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương trình này. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Việt Nam Thái Lan, Singapore, Malaysia…đều đã xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Về phía Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện “Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000″ (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH”. Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Gần đây, Đại hội X (2006) của Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20 năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển kinh tế – xã hội nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó, bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Như vậy là theo từng thang bậc tiến trình phát triển của lý thuyết kinh tế học phát triển hiện đại mà các khái niệm cơ bản nhất của lý thuyết này như đã đề cập ở những nét khái quát nhất trên đây đã cho thấy, cho đến thời điểm này thì phát triển bền vững đã và đang còn là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới đương đại và nội hàm phản ánh của nó là rất rộng lớn, sâu sắc.

HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN (OPTION CONTRACT)

TRẦN TRÍ DŨNG
Giả sử S là giá trị của một tài sản và S dao động bất định phụ thuộc vào tác động của thị trường. T là thời gian đáo hạn. Một quyền chọn là một hợp đồng giữa người nắm giữ và người viết, bắt đầu có hiệu lực từ thời điểm t = 0, trong đó người nắm giữ quyền chọn có quyền đòi một lợi nhuận X ngẫu nhiên nào đó. X phụ thuộc vào sự tiến triển của S tại một thời điểm trong tương lai, bao gồm cả thời điểm T.
Như vậy, quyền chọn bản chất là một vụ cá cược tinh vi và có thể kết luận: hợp đồng quyền chọn phải có một giá trị nhất định đối với người nắm giữ nó. Người viết hợp đồng có thể đánh phí rất cao để phòng vệ nhằm chống lại rủi ro chi trả nhiều một cách thường xuyên. Nhưng nếu như vậy thì người viết hợp đồng quyền chọn dường như có lợi hơn và thị trường sẽ đổ xô bán quyền chọn chứ không mua. Ngược lại, nếu người bán quyền chọn không đưa ra một mức giá đủ cao thì những khách hàng tham vọng sẽ tìm cơ hội mua quyền chọn đó với số lượng lớn. Cả hai trường hợp trên đều là ví dụ về đầu cơ, trong khi những nhà đầu tư khác trên thị trường thì đều mong muốn một cơ chế xác lập giá công bằng.
Bản chất là một công cụ tài chính, ưu điểm của quyền chọn thể hiện trong 3 hình thức giao dịch của 3 nhóm người trên thị trường quyền chọn:
Người phòng hộ. Những người này mua quyền chọn như một dạng hợp đồng bảo hiểm trước những thay đổi bất thường của thị trường. Nếu một công ty có quan hệ ngoại thương thì nó sẽ mua hợp đồng quyền chọn tiền tệ để được chi trả một khoản chắc chắn khi tỷ giá hối đoái trở nên bất lợi. Theo cách này, bạn có thể phòng vệ nhiều hay ít tùy thuộc vào việc bạn mua quyền chọn trị giá bao nhiêu. Ví dụ, nếu ta muốn nhập khẩu 1 tỷ yên hàng điện tử của Nhật trong thời hạn 1 năm kể từ bây giờ với tỷ giá 200 yên/bảng, có thể thực hiện một quyền chọn cam kết chi trả cho bạn 1 tỷ yên sau một năm nếu tỷ giá hối đoái chỉ còn 181.23 yên/bảng tại bất kỳ thời điểm nào trong 1 năm đó.
Điều này có nghĩa là, khi giá đồng yên tăng tương đối với đồng bảng thì có thể thực thi quyền chọn và mua hàng hóa. Còn nếu tỷ giá tiếp tục duy trì ở mức thấp thì sẽ mất số tiền bỏ ra để mua quyền chọn và sẽ mua hàng tại tỷ giá đã được sẵn sàng chi trả. Chi phí của chiến lược phòng hộ này chỉ là mua một quyền chọn với giá tương đối rẻ so với những biến động lớn của thị trường tiền tệ.
Nhà đầu cơ. Là những người đánh cược vào sự biến động của giá các loại tài sản. Họ tham gia vào một vị thế nhất định thị trường tùy thuộc vào niềm tin của mình, lỗ hoặc lãi hoàn toàn ngẫu nhiên. Họ coi chứng khoán phái sinh như một công cụ tăng ga cho hoạt động đầu tư của họ. Bởi vì các sản phẩm phái sinh từ các tài sản cơ sở có khả năng mang lại lợi nhuận nhiều hơn chính các tài sản cơ sở đó.
Ví dụ, bạn đầu tư 10.000 bảng vào một cổ phiếu trị giá 10 bảng để mua 1.000 cổ phiếu đó. Nếu giá cổ phiếu tăng lên 11 bảng trong vòng một năm, bạn lãi được 1.000 bảng. Còn nếu bạn mua một hợp đồng quyền chọn để được quyền mua cổ phiếu trên với giá 10 bảng trong một năm, và bạn phải mất chi phí, giả sử, 0.5 bảng một cổ phiếu, bạn có thể mua được 20.000 nghìn cổ phiếu. Nếu giá cổ phiếu tăng lên 11 bảng, bạn thực thi quyền chọn, mua 20.000 cổ phiếu với giá 10 bảng và bán lại chúng trên thị trường với giá 11 bảng, bạn sẽ lãi 10.000 bảng. Đương nhiên, nếu giá cổ phiếu tụt xuống chỉ 9.99 bảng, bạn sẽ mất toàn bộ số tiền bỏ ra mua quyền chọn.
Nhà cơ lợi phi rủi ro. Là những người quan sát thị trường và cố gắng tìm ra những tình huống thu lời phi rủi ro. Họ kết hợp việc mua hàng hóa tại một thị trường này và bán lại tại một thị trường khác sao cho độ chênh lệch giá đảm bảo một khoản lãi.
Một ví dụ đơn giản là khi một cổ phiếu được giao dịch tại hai mức giá khác nhau trên hai thị trường. Nếu một cổ phiếu được giao dịch tại London với giá 100 bảng và 285 mác Đức tại Frankfurt, trong khi tỷ giá hối đoái là 2.82 mác/bảng, thì cổ phiếu đó rẻ hơn tương đối ở London. Bạn có thể mua 1.000 cổ phiếu tại London và bán lại chúng tại Frankfurt rồi đổi mác Đức sang bảng và thu được một khoản 1063.3 bảng mà không phải chịu bất kỳ rủi ro nào. Những cơ hội như vậy là vô cùng hiếm và ngay lập tức nó bị chộp mất bởi những người săn cơ hội kiếm lời. Khi mọi người mua cổ phiếu thì giá sẽ tăng trên thị trường London và khi mọi người bán cổ phiếu đó tại Frankfurt thì giá ở đây cũng sẽ giảm đi cho đến khi nào giá ở hai nơi được xác lập cân bằng.
SOURCE: SAGA.VN

BÁN PHÁ GIÁ

Bán phá giá xảy ra khi một công ty xuất khẩu một hàng hoá với giá thấp hơn giá bán thông thường trên thị trường nội địa của mình. Nếu hành động bán phá giá này gây thiệt hại đáng kể cho các nhà sản xuất của nước nhập khẩu thì cơ quan chức năng của nước nhập khẩu có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá để bù đắp cho những thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra.
Bán phá giá được định nghĩa trong Khoản 1, Điều VI của GATT 1994: “… bán phá giá là cách hàng hóa của một nước được đưa vào thị trường của nước khác với mức giá thấp hơn giá thị thông thường của hàng hóa, …”
Điều 2.1 Hiệp định Chống bán phá giá (ADA) của WTO:
“…một hàng hóa được coi là bị bán phá giá, có nghĩa là được đưa vào thị trường của nước khác ở mức thấp hơn giá trị thông thường, nếu giá xuất khẩu của một hàng hóa được xuất khẩu từ một nước sang một nước khác thấp hơn giá có thể so sánh được, trong điều kiện thương mại thông thường, là giá của hàng hóa tương tự được bán để tiêu dùng tại nước xuất khẩu đó.”
Điều 3.1 Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (Pháp lệnh chống bán phá giá):
“Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá trị thông thường…”
Tóm lại, bán phá giá được xác định bằng cách so sánh “giá xuất khẩu” với “giá thông thường’. Bán phá giá xảy ra khi “giá xuất khẩu” thấp hơn “giá thông thường”. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình xác định liệu một nhà xuất khẩu có bán phá giá đến mức gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước tại thị trường nhập khẩu hay không phức tạp hơn nhiều so với việc so sánh giá một cách đơn giản. Để áp dụng được biện pháp chống bán phá giá, Cơ quan điều tra phải trải qua một cuộc điều tra kỹ lưỡng và phải chứng minh được đủ ba điều kiện:

§ Có bán phá giá và biên độ bán phá giá cụ thể (“xác định bán phá giá”)

§ Ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự trong nước nhập khẩu bị thiệt hại một cách đáng kể hoặc bị đe dọa gây thiệt hại một cách đáng kể hoặc việc bán phá giá gây khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất trong nước (“xác định thiệt hại”)

§ Thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu xảy ra hoặc bị đe dọa xảy ra là do hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá gây ra (“xác định mối quan hệ nhân quả”)

Quy trình xử lý vụ việc chống bán phá giá

Theo quy định của Pháp lệnh chống bán phá giá 20/PL-UBTVQH11, một vụ việc điều tra và xử lý chống bán phá giá có thể được tiến hành qua bốn giai đoạn:
>>> Giai đoạn 1: Thẩm định hồ sơ và ra quyết định điều tra
>>> Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ và ra kết luận điều tra sơ bộ
>>> Giai đoạn 3: Điều tra cuối cùng và ra kết luận cuối cùng
>>> Giai đoạn 4: Áp dụng biện pháp chống bán phá giá và tiến hành rà soát


Quy trình xử lý vụ việc chống bán phá giá

Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá

Khi cho rằng lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài, các cá nhân, tổ chức Việt Nam có thể nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá lên Cục Quản lý cạnh tranh. Hồ sơ bao gồm:

§ Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá (Nội dung đơn được quy định chi tiết tại Điều 18 của Nghị định 90/2005/NĐ-CP)

§ Các tài liệu, thông tin liên quan khác mà tổ chức, cá nhân yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá cho là cần thiết

Vụ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá do Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá tiến hành. Thời hạn và thủ tục chi tiết của từng giai đoạn được quy định cụ thể trong Pháp lệnh chống bán phá giá và Nghị định 90/2005/NĐ-CP.

Sunday, October 13, 2013

TÀI SẢN VÔ HÌNH (Intangible asset) VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH XÁC ĐỊNH (Identifiable intangible assets)

LÊ PHƯƠNG TRANG 
Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín… là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đặc tính của tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác định vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sáng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty.
Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Coca-Cola khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Coca-Cola.
——————————-
Tài sản vô hình xác định là loại tài sản mà giá trị của chúng có thể được định rõ thông qua những nguyên tắc của kế toán. Chúng có thể được vốn hóa trực tiếp từ những khoản chi phí đã chi ra (trường hợp phát triển nội bộ) hoặc ghi theo giá mua (trường hợp mua ngoài). Dù được hình thành từ nguồn nào thì cũng được kế toán ghi nhận là một tài sản của doanh nghiệp.
Những cơ sở để ghi nhận tài sản vô hình xác định:
- Tài sản đó phải được xác định và nhận biết một cách cụ thể
- Tài sản đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về tài sản vô hình đã quy định trong chế độ kế toán hiện hành của nước sở tại.
- Tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể chuyển giao tài sản cho bên thứ 2 một cách hợp pháp.
- Phải có bằng chứng đáng tin cậy về sự tồn tại của tài sản đó trong doanh nghiệp
- Những tài sản này thường mang lại lợi ích lớn hơn giá trị của bản thân tài sản đó (tức số chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được tài sản).
Một số tài sản vô hình xác định như:
- Tài sản vô hình liên quan tới hoạt động Marketing: thương hiệu, nhãn hiệu, logo…
- Tài sản vô hình liên quan tới kỹ thuật công nghệ: giấy đăng ký quy trình sản xuất, giấy đăng ký bản quyền, tài liệu về kỹ thuật công nghê ( những ghi chép trong phòng thí nghiệm, bí quyết kỹ thuật…)
-  Những tài sản vô hình liên quan tới nghệ thuật như: Các tác phẩm hay bản quyền tác giả…
- Tài sản vô hình liên quan tới việc xử lý dữ liệu: Những phần mềm máy tính có bản quyền, cơ sở dữ liệu số, Phần mềm kiểm soát mạng tích hợp nội bộ…
- Tài sản vô hình liên quan tới công việc thiết kế kỹ thuật: Kiểu dáng công nghiệp, đăng ký bản quyền sản phẩm, bí quyết thương hiệu, bản vẽ và biểu đồ kỹ thuật, bản thiết kế, chứng nhận quyền sở hữu…
- Tài sản vô hình liên quan tới khách hàng: danh sách khác hàng, các hợp đồng với khách hàng, quan hệ khách hàng…
- Tài sản vô hình về nguồn lực: đội ngũ lao động lành nghề, hợp đồng lai động, hợp đồng liên kết v.v…
Trên thị trường chứng khoán, tài sản vô hình xác định có thể được coi là một trong những nhân tố tác động tới thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp bỏ ra lượng chi phí nhất định cho việc nghiên cứu khoa học để có thể tìm ra một bí quyết mà nhờ đó lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên đáng kể (bí quyết sản xuất nước giải khát Cocacola là một điển hình). Động thái này sẽ làm giá cổ phiếu tăng vì người nắm giữ cổ phiếu có khả năng thu được những khoản lợi tức cao hơn trước.
© saga.vn

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code