Saturday, September 28, 2013

Tiểu luận "Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay"

Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo hiến trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế bảo hiến hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến nào là hiệu quả?

ĐỀ TÀI MÔN HỌC HIẾN PHÁP 1 - 1/1/2008
1. Kiều Anh Vũ 3220226
2. Nguyễn Thị Hồng Ngự 3220236
3. Trần Việt Tuấn 3220214
4. Kim Sum 3220245

Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận : ”Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Những đặc trưng cơ bản nhất của một Nhà nước pháp quyền nói chung là tính thượng tôn pháp luật và bảo đảm dân chủ. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải tạo dựng và phải tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo có được hai đặc trưng đó. Tuy nhiên, đây là một bài tóan khó mà muốn giải được nó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều bước giải khác nhau với các quy trình và thủ thuật thích hợp. Ở đây, chúng tôi muốn nói rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều “chất xám” và công sức. Chúng ta phải thực hiện rất nhiều việc trong thời gian lâu dài mới có thể xây dựng được. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến một trong những việc đó. Đó chính là xây dựng cơ chế bảo hiến.
Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo hiến trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế bảo hiến hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến nào là hiệu quả? Chúng ta phải nghiên cứu để có được câu trả lời hợp lí nhất cho những câu hỏi đó. Chúng ta phải nghiên cứu để xây dựng, để có được cơ chế bảo hiến hữu hiệu trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy nghiên cứu về vấn đề bảo hiến là một vấn đề không kém tính thời sự. Việc nghiên cứu này đang diễn ra thường xuyên ở các diễn đàn khoa học. Chúng tôi, với tư cách là những người đang học tập, nghiên cứu về khoa học pháp lý cũng muốn tìm hiểu về vấn đề này.
Nghiên cứu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, trước hết, chúng tôi muốn nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi muốn xây dựng cho mình góc nhìn pháp lý, cách tiếp cận vấn đề pháp lý một cách khoa học. Bên cạnh đó, chúng tôi hy vọng kết quả từ sự nghiên cứu của chúng tôi sẽ mang lại những lợi ích nhất định. Chúng tôi mong muốn bài viết này là tài liệu tham khảo cần thiết và hữu ích cho những ai quan tâm, tìm hiểu về vấn đề bảo hiến ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng mà chúng tôi hướng đến chủ yếu là các bạn sinh viên như chúng tôi. “Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay”, chúng tôi mong muốn được góp ý kiến trao đổi về vấn đề này, để cùng nhau đi đến một sự đồng thuận, cùng đi tìm và xây dựng cơ chế bảo hiến thích hợp nhất ở nước ta.
Để có được sản phẩm thực sự khoa học, chúng tôi đã bỏ ra thời gian tập trung nghiên cứu nhất định. Mong muốn có được kết quả tốt nhất, trên cơ sở khả năng của mình, chúng tôi đã vận dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Về cơ sở phương pháp luận, đó là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó là các phương pháp: tổng hợp, phân tích, tổng-phân-hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch…
“Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay” thì có rất nhiều vấn đề để “bàn”. Có những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu, lâu dài. Với kiến thức còn hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ có thể nghiên cứu một vài vấn đề nhất định mang tính cơ bản, dễ tiếp cận mà thôi. Trên tinh thần đó, bài viết này nghiên cứu về các vấn đề sau đây, cũng là cấu trúc của bài viết: 
PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ chế bảo hiến - nhu cầu tất yếu

Tại Hội nghị đại biểu tòan quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII, năm 1994, Đảng cộng sản Việt Nam đã chính thức đề cập đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị, Đảng ta nêu ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”. Từ đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, trường kỳ. Tư tưởng đó được phát triển tại các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo và chính thức trở thành một vấn đề Hiến định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”[1]. Như phần mở đầu chúng tôi đã có đề cập, một trong những đặc trưng chung nhất của Nhà nước pháp quyền là tính tối cao của Hiến pháp, pháp lụât, trước hết là vị trí tối thượng của Hiến pháp. Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, đó là hai yếu tố không thể tách rời nhau, không thể có cái này mà không có cái kia. “Lý thuyết về Hiến pháp (Chủ nghĩa lập hiến) đồng thời cũng là lý thuyết về Nhà nước pháp quyền. Nội dung, yêu cầu của Hiến pháp cũng chính là nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền...Nói cách khác, nội dung của Hiến pháp điều chỉnh những vấn đề thuộc về nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền”[2]. Vì vậy, Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp trở thành một đòi hỏi không thể tách rời Nhà nước pháp quyền.”Nhưng sự hiện diện của Hiến pháp chỉ là yếu tố cần chứ chưa phải là đủ của một chế độ dân chủ, của một Nhà nước pháp quyền, nếu như các cơ quan công quyền thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vượt quyền, lạm quyền, vi phạm thẩm quyền được Hiến pháp ghi nhận, ban hành các văn bản họăc thực hiện các hành vi trái Hiến pháp có khả năng hoặc thật sự đã gây thiệt hại cho công dân, cho các tổ chức xã hội. Vì vậy, để chế độ Hiến pháp được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế, cần phải có cơ chế hữu hiệu bảo vệ và khôi phục trật tự hiến định”[3]. Để đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp thì nó cần phải được bảo vệ. Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp không thể bị xâm phạm vì bất kỳ lí do gì. Do đó, chúng ta cần phải có một cơ chế bảo hiến - cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên cơ chế bảo hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu. Nếu không có cơ chế bảo hiến hoặc có nhưng cơ chế không hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính hiệu lực của Hiến pháp bị xâm hại, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được đảm bảo và chúng ta sẽ không có được Nhà nước pháp quyền!
Hơn nữa, ngày nay, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều công nhận rằng Hiến pháp là đạo luật cơ bản của quốc gia. Bởi vì Hiến pháp xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất ý chí của nhân dân, sự lựa chọn chính trị của nhân dân.Hiến phápđạo luật cơ bản của Nhà nước do cơ quan đại diện có thẩm quyền thông qua hoặc do nhân dân trực tiếp thông qua; trong đó quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và họat động của các cơ quan Nhà nước then chốt, thể hiện một cách tập nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội - ở nước ta, đó là toàn thể nhân dân vì nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an tòan của người dân. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của một đất nước, nó bao gồm các chế định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Vì lẽ đó, Hiến pháp cần phải ở vị trí tối thượng vì nó là ý chí phổ biến và đầy đủ nhất của nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí nhân dân.Chính vì điều này mà chúng ta cần thiết phải có một cơ chế bảo hiến hoàn chỉnh vì có liên quan mật thiết đến tính dân chủ của một Nhà nước, một chế độ, một xã hội và đến sự tồn vong của một thể chế. Tính tối cao của Hiến pháp được quy định trong Hiến pháp nước ta như sau (Điều 146, Hiến pháp 1992): “Hiến pháp nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Tính tối cao (tối thượng) của Hiến pháp không phải chỉ được khẳng định trên văn bản bằng những con chữ mà chúng ta cần phải có cơ chế đảm bảo nó được thực hiện trong thực tế. Do đó, đòi hỏi tất yếu ở đây là cần có cơ chế bảo vệ.
Không những vậy, cơ chế bảo hiến còn là một đòi hỏi, một nhu cầu mang tính nguyên tắc. Đó chính là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. “Pháp chế xã hội chủ nghĩa được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác hiến pháp và luật của mọi chủ thể của các quan hệ pháp luật. “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992” quy định tại điều 12 “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nguyên tắc này cũng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, cần triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của công dân đã được pháp luật quy định, ngăn chặn kịp thời và xử lí nhanh chóng, công minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp chế và tính hợp lí, công bằng”[4]. Như vậy, nguyên tắc này đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp. Đã là nguyên tắc thì phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Nhưng trên thực tế, khó tránh khỏi nguyên tắc này bị vi phạm. Do đó, để ngăn ngừa và xử lí việc vi phạm, một nhu cầu tất yếu là phải có biện pháp bảo vệ. Cơ chế bảo hiến đáp ứng được nhu cầu đó.
Trên đây là một vài lý do để có một cơ chế bảo hiến. Chúng tôi cho rằng đó là những lý do hết sức thuyết phục để có một cơ chế bảo hiến hữu hiệu ở nước ta. Và những lý do đó cũng là những đòi hỏi khách quan, tất yếu về một cơ chế bảo hiến. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là lý do để có cơ chế bảo hiến. Đến lượt mình, cơ chế bảo hiến trở thành đòi hỏi tất yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì nó đảm bảo đặc trưng của mô hình Nhà nước này, đảm bảo được dân chủ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý rằng, cơ chế bảo hiến chỉ đặt ra đối với Hiến pháp cương tính.Hiến pháp cương tính mới đòi hỏi hiến pháp ở vị trí tối thượng, có hiệu lực pháp lý cao nhất và thủ tục sửa đổi phải tuân thủ nghiêm ngặt những trình tự phức tạp. Đối với Hiến pháp nhu tính thì không có đòi hổi đó, Hiến pháp nhu tính chỉ có vị trí như thường luật và thủ tục sửa đổi dễ dàng. Nếu một đạo luật được ban hành trái với Hiến pháp (nhu tính), thì nó được xem là sửa đổi điều khỏan của Hiến pháp. Chính vì vậy, không đặt ra cơ chế bảo hiến đối vơi Hiến pháp nhu tính. Có thể nói, Hiến pháp cương tính là cơ sở để có cơ chế bảo hiến[5].
 2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam

2.1. Khái lược lịch sử lập hiến Việt Nam[6]

Trước khi tìm hiểu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam. Thiết nghĩ, chúng ta nên nhìn lại sơ lược về lịch sử lập hiến Việt Nam. Chúng ta phải có một nền lập hiến, có Hiến pháp thì mới đặt vấn đề bảo hiến. Tư tưởng lập hiến Việt Nam xuất hiện vào những năm đầu của thế kỷ XX. Trong quá trình đấu tranh yêu nước, nhiều sĩ phu, trí thức tiến bộ có cơ hội tiếp xúc tư tưởng của “đại cách mạng” Pháp 1789, ảnh hửơng của cách mạng Tân Hợi (Trung Hoa) 1911 và chính sách Duy tân mà Thiên hòang Minh Trị áp dụng ở Nhật Bản…Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện từ những ảnh hưởng đó.
Tư tưởng lập hiến lúc đó chia thành hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong đó bảo đảm : quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và quyền của “dân An nam” về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại diện cho xu hướng này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến năm 1923) và Phạm Quỳnh.
Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập đó. Không có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện cho chủ trương này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc.Thực tiễn cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã chứng minh chủ trương thứ hai là hoàn toàn đúng đắn.
Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời trong bối cảnh nước ta đã giành được độc lập. sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" của nhân dân ta, dân tộc ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở đông Nam châu Á. Ngày 03/09/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chủ Tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó có nhiệm vụ lập ra một Hiến pháp dân chủ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Ngày 20/9/1945 Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến. Ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Nền độc lập dân tộc vừa mới giành được lại bị đe dọa vì Thực dân pháp quay lại xâm lược. Với niềm tin "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta làm nên chiến thằng Điện Biên Phủ lịch sử. Thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/07/1954), miền Bắc được giải phóng nhưng đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1946 “đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy, chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”. (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959). Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 1/4/1959 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959 Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này.
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976 đến 3/7/1976), Quốc hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 vị do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ tịch. Sau hơn một năm chuẩn bị khẩn trương, Dự thảo Hiến pháp đã được lấy ý kiến, thảo luận trong cán bộ và nhân dân. Ngày 8/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong hoàn cảnh đất nước chan hoà khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được ban hành vào cuối những năm 60-70 đã khẳng định đây là thời kỳ xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất nước. Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại…, đặc biệt là đổi mới về kinh tế. Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách đối ngoại, tháng 12/1988 Quốc hội thông qua nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu Hiến pháp 1980, bỏ hết những câu chữ chỉ đích danh từng tên thực dân, từng tên đế quốc…để thực hiện phương châm "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" với những nước vốn là kẻ thù xâm lược và đã từng gây tội ác đối với nhân dân ta. Tiếp theo, để dân chủ hóa đời sống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường vị trí và vai trò của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30 tháng 6/1989 tại kỳ họp thứ 5 nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội đã thông qua nghị quyết sửa đổi 7 điều Hiến pháp 1980 để quy định thêm công dân có quyền tự ứng cử làm đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; quy định việc thành lập cơ quan thường trực HĐND từ cấp huyện trở lên. Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội ra nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980.
Sau gần một thập kỷ tồn tại, đất nước có nhiều đổi mới, phát triển. Để phù hợp với tình hình mới, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X (12/2001), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 51/2001/QH10, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992.
2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam

Nhìn lại lịch sử lập hiến Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng dù chưa lâu đời nhưng chúng ta đã có được một nền lập hiến dân chủ. Ngay từ đầu, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên, chúng ta đã để cao vai trò của Hiến pháp. Trên thực tế, mặc dù Hiến pháp 1946 không được ban hành rộng rãi trong nhân dân vì hoàn cảnh chiến tranh nhưng Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh luôn làm việc theo Hiến pháppháp luật.Chính vì ngay từ đầu chúng ta đã đề cao tính tối cao của Hiến pháp nên đã sớm hình thành cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên, trong thời gian đầu cơ chế này không thể hoàn thiện hay đầy đủ được cũng như chưa đáp ứng trọn vẹn về mặt ngữ nghĩa của cụm từ này. Cơ chế là cách thức theo đó một quá trình được thực hiện. Theo nghĩa rộng: cơ chế bảo vệ hiến pháp là tổng thể những cách thức và phương tiện pháp lý khác nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh hiến pháp của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong xã hội. Theo nghĩa hẹp: cơ chế bảo hiến được hiểu là một thiết chế được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xác định của pháp luật để thể hiện các biện pháp nhằm bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng, giữ đúng vai trò của nó trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội và chống lại mọi sự xâm phạm có thể xảy ra; được hiểu là hoạt động được thể hiện bởi một cơ quan nhằm gìn giữ cho Hiến pháp không bị xâm phạm, đặc biệt là từ trong hoạt động ban hành và thực thi các đạo luật, bảo vệ Hiến pháp thuờng gắn liền với việc cơ quan có thẩm quyền xem xét và ra quyết định về tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc cũng có thể là cơ quan tư pháp ban hành đồng thời xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp của các cơ quan hành pháp quyết định. Cơ chế bảo hiến ở nước ta trong thời gian đầu chính là được hiểu theo nghĩa rộng của từ này. Nó đảm bảo Hiến pháp không bị xâm phạm, không được thay đổi tùy tiện.
Để hiểu rõ hơn về cơ chế bảo hiến ở nước ta, sau đây chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề này lần lượt qua các bản Hiến pháp.
2.2.1. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp 1946, 1959 và 1980.

Nhìn chung, cơ chế bảo hiến được quy định trong các bản Hiến pháp chính là cơ chế giám sát giữa các nhánh quyền lực trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật. đó còn là việc khẳng định vị trí tối thượng của Hiến pháp, khẳng định hiệu lực pháp lý tối cao của Hiến pháp. Quy định cụ thể, nghiêm ngặt trình tự và yêu cầu, sửa đổi Hiến pháp.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946, việc bảo hiến nói chung quy định chưa nhiều, chỉ có một vài điều mà thôi. sở dĩ như vậy là vì đây là bản Hiến pháp đầu tiên, là bản Hiến phá đi tiên phong cho nền lập hiến Việt Nam. Chính vì đầu tiên cho nên vẫn có những hạn chế nhất định. Hơn nữa, Hiến pháp ra đời trong bối cảnh nước ta mới giành được độc lập thì lại phải chống Thực dân Pháp quay lại xâm lược. Rõ ràng, chúng ta không có điều kiện thật sự thuận lợi để chú ý xây dựng một bản hiến pháp. Tuy nhiên, đây là bản Hiến pháp có nhiều điểm tiến bộ đáng quý, là bản Hiến pháp dân chủ. về bảo hiến, Hiến pháp này có những ghi nhận sau:
Điều 21: “Nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo điều 32 và 70”
Điều 32: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định”
Điều 70: “Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.”
Vấn đề bảo hiến ở đây chính là vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp ghi nhận một cơ chế sửa đổi để bảo vệ Hiến pháp không bị xâm phạm, thay đổi tùy tiện. Ở đây, việc sửa đổi Hiến pháp có thủ tục bắt buộc là đưa ra "tòan dân phúc quyết". đây là một trong những đặc điểm thể hiện tính dân chủ của Hiến pháp này, và là một trong những biện pháp nhằm mục đích bảo hiến, bảo vệ ý nguyện của nhân dân.
Cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp 1959: Chúng ta thấy rằng, dù Hiến pháp 1946, có quy định việc sửa đổi Hiến pháp nhưng chưa khẳng định hiệu lực pháp lý của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 cũng chưa khẳng định điều này. Tuy nhiên, qua những gì được ghi trong Hiến pháp này thì tính tối cao của Hiến pháp cũng đã gián tiếp được thừa nhận. Hiến pháp này quy định:
- Điều 50: Quốc hội có những quyền hạn sau:
1- Làm hiến pháp sửa đổi hiến pháp
2- Làm pháp luật
3- Giám sát việc thi hành hiến pháp.
………………..”
Những điều trên đã hạn chế quyền lực của quốc hội trong một định khung, tức là Hiến pháp đã gián tiếp thể hiện tính tối cao của mình đối với cơ quan quyền lực tối cao nhất trong bộ máy nhà nước.
- Điều 112: “Chỉ có quốc hội mới có quyền sửa đổi hiến pháp.Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu quốc hội biểu quyết tán thành”.
- Điều 73: “Hội đồng chính thể căn cứ vào hiến pháp, pháp luậtpháp lệnh mà quy định những biện pháp hành chính, ban bố những nghị định, nghị quyết, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những nghị định , nghị quyết và chỉ thị ấy”.
- Điều 105: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc hội đồng chính phủ, cơ quan nhà nước và công dân.Các viện kiểm sát nhân dân địa phương và viện kiểm sát nhân địa phương và viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định".
Như vậy, Hiến pháp 1959 đã đề cập đến vấn đề bảo hiến một cách đầy đủ hơn Hiến pháp 1946. Đã có nhiều chủ thể tham gia bảo hiến, đã có cơ chế giám sát văn bản quy phạm pháp lụât.
Cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp 1980:Kế thừa nhứng gì đã quy định trong hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 tiếp tục có được những quy định nhăm mục đích bảo hiến. Một cơ chế bảo hiến theo mô hình giám sát dần dần hình thành qua các bản Hiến pháp Việt Nam. Hiến pháp này quy định chi tiết như sau:
- Điều 4: “Đảng cộng sản Việt nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang vào bằng học thuyết Mác-Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt nam.
Các tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp
Ngay Điều 4 đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp. Dù đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng đảng không lớn hơn Hiến pháp, không đứng trên Hiến pháp. Hiến pháp là tối cao.
- Điều 82: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoat động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của nhân dân.
Quốc hôi thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt dộng của nhà nước.”
- Điều 83: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.
2- Làm luật và sửa đổi luật.
3- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháppháp luật"
- Điều 98: "Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiếp pháp, các luật và nghị quyết của Quốc hội giao cho, quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giám sát việc thi hành Hiếp pháp, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước".
- Điều 100: "Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
3- Công bố luật.
4- Ra pháp lệnh.
5- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
6- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
7- Giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
8- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
...
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân.
...
16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định".
- Điều 107: "Hội đồng bộ trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháppháp luật.
...
22- Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháppháp luật trong nhân dân.
23- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng.
24- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
25- Đình chỉ việc thi hành và sử đổi hoặc bãi bỏ những quyết định và chỉ thị không thích đáng của Uỷ ban nhân dân các cấp".
- Điều 115: "Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm cho Hiến pháppháp luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh ở địa phương; quyết định các biện pháp thi hành chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ do cấp trên giao cho.
...
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp".
Cơ chế bảo hiến ở đây chính là việc quy định các cơ quan nhà nước phải làm việc theo hiến pháp và phát luật. Cơ chế bảo hiến theo hình thức giám sat đã hình thành với nhiều chủ thể cùng giám sát lẫn nhau, để đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, trong nội tại bản Hiến pháp này vẫn có những điểm chưa hợp lí, không đảm bảo được cơ chế bảo hiến đã định ra. Vì trong Hiến pháp có quy định Quốc hội có quyền định ra quyền cho mình hay cho những cơ quan khác, khi thấy cần thiết. Đây là một khiếm khuyết lớn của bản Hiến pháp này vì đã không trung thành với tính tối cao của Hiến pháp
2.2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Híên pháp 1992[7] - cơ chế bảo hiến hiện nay

Cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay được thể hiện cụ thể qua bản Hiến pháp 1992 hiện hành. Đó là cơ chế giám sát tương đối tòan diện. Người ta gọi cơ chế bảo hiến theo việc giám sát như thế này là mô hình Quốc hộiQuốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối vơi toàn bộ họat động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó không trái với nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp. Cụ thể, cơ chế giám sát đó được thể hiện chi tiết qua những quy định sau đây trong Hiến pháp:
- Điều 83: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
...
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước".
- Điều 84: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
...
9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
...
13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;"
- Điều 91: "Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
...
5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân"
- Điều 94, 95 quy định Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực mà mình phụ trách.
- Trong các chế định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, hiến pháp cũng quy định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân bảo vệ Hiến pháp thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Không những vậy, pháp luật hiện hành có quy định cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp thông qua việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật - một trong những nội dung quan trọng nhất của cơ chế bảo hiến. Theo đó, Quốc hội thực hiện quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có quyền bãi bỏ căn bản của các cơ quan này nếu văn bản đó được ban hành trái với với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và có quyền đình chỉ văn bản của những cơ quan này nếu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với cá dự án luật, pháp lệnh khi trình Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua. Thủ tướng có việc đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân và chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, đình chỉ thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nếu nó trái Hiến pháp. Hội đồng nhân dân giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và có quyền bãi bỏ nếu trái Hiến pháp. Chủ tịch ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp[8].
Như vậy, cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay chính là giám sát theo mô hình Quốc hộiQuốc hội giữ vai trò giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Đó cũng là cơ chế bảo hiến với nhiều chủ thể cùng với những họat động, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Quá nhiều chủ thể, nhiều tầng nấc làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của các họat động đó. Việc giám sat quá nhiều chủ thể dẫn đến tình trạng “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”, “cha chung không ai khóc”. Hơn nữa, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật, vừa giám sát, quyết định về việc một đạo luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp! Điều này là không khách quan. Bên cạnh đó, Quốc hội còn có trách nhiệm giải quyết việc tuân thủ hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư pháp). Như vậy “còn có sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp trong họat động của Quốc hội[9]. Trong khi đó các đại biểu Quốc hội là chuyên gia pháp luật không nhiều, đa số đại biểu họat động theo chế độ kiêm nhiệm, Quốc hội làm việc theo chế độ Hội nghị và quyết định theo đa số. Cơ cấu như vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các trường hợp văn bản Luật trái hiến pháp và các văn bản luật cũng trái nhau nhưng không có cơ quan nào đứng ra “phán quyết”, hay hủy bỏ văn bản pháp luật không hợp hiến, hợp pháp. Đó là minh chứng cho sự không hiệu quả của cơ chế bảo hiến hiện nay. Sau đây là những bằng chứng cụ thể cho tình trạng vi Hiến, vi pháp:
· Nghị định số 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 9-3-1988 “Về kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải” đã thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, công nhận hình thức sở hữu tư nhân, trong khi Hiến pháp năm 1980 không thừa nhận thành phần kinh tế và hình thức sở hữu tư nhân. Vì vậy, phần mở đầu của Nghị định này không phải căn cứ vào Hiến pháp năm 1980 mà căn cứ vào “Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải”;
· Hay Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987 cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài; Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 quy định: “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác", "chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh” , trong khi Điều 18 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động” vẫn đang có hiệu lực, chưa hề được sửa đổi v.v.
· Những văn bản pháp luật này thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng, có vai trò và tác dụng to lớn trong việc chuyển đổi cơ chế, khai thác và phát huy mọi tiềm năng để phát triển kinh tế của đất nước. Tác dụng và hiệu quả của những văn bản pháp luật này là không thể phủ nhận được. Nhưng sẽ là hợp hiến và tốt hơn nếu trước khi ban hành những văn bản pháp luật “có lợi cho dân, cho nước” này chúng ta cần phải sửa đổi, bãi bỏ các quy định lỗi thời, lạc hậu của Hiến pháp năm 1980.
· Hay Chỉ thị số 406/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08.8.1994 “Về cấm sản xuất, kinh doanh và đốt pháo nổ”, mặc dù ý nghĩa, giá trị xã hội và hiệu quả kinh tế - xã hội của Chỉ thị này là đặc biệt lớn lao, nhưng thời điểm ban hành chỉ thị này (1994), sản xuất, kinh doanh (“SXKD”) pháo nổ vẫn là ngành nghề SXKD không bị pháp luật cấm . Điều 9 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 quy định thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng pháo với mức thuế suất là 70% và đến ngày 5/7/1993, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 còn nâng mức thuế suất đối với mặt hàng pháo là 100%. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ trái với Nghị định số 221-HĐBT và Nghị định số 222-HĐBT ngày 23/7/1991 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty liên quan đến SXKD các loại pháo và trái với Luật thuế tiêu thụ đặc biệt của Quốc hội, nhưng những người, những cơ sở SXKD pháo nổ đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hành nghề SXKD pháo nổ vẫn nghiêm chỉnh chấp hành, không khiếu kiện gì và cũng không biết khiếu kiện ở đâu, vì Tòa án nước ta cho đến nay cũng không có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện về VBQPPL bị cho là trái Hiến pháp, trái luật làm thiệt hại đến
quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân v.v.
· Nếu như những văn bản trên đây tuy trái với Hiến pháp, luật nhưng phù hợp với thực tiễn, phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của nhân dân thì cũng có một số văn bản pháp luật khác vừa trái với Hiến pháp hoặc Luật, vừa hạn chế, “cắt xén” quyền hiến định của công dân. Ví dụ điển hình nhất là Thông tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/1/2003 của Bộ Công an quy định mỗi người được đăng ký 1 môtô hoặc xe máy là trái với quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 58 của Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt (tác giả nhấn mạnh – T.Đ.L.), tư liệu sản xuất ...”. Phải 2 năm sau, khi người dân ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh khốn khó vì quy định vi hiến nói trên đã kêu ca, phàn nàn và báo chí đồng loạt lên tiếng… Bộ Công an mới ban hành Thông tư số 17/2005/TT-BCA ngày 21/11/2005 bãi bỏ quy định trái Hiến pháp này v.v.[10]
· Gần đây, xáy ra tình trạng Toà án và trọng tài kinh tế “giành nhau” xử kiện do chưa có sự thống nhất về luật, do có sự chênh nhau giữa pháp lệnh và Nghị quyết. Cụ thể là Điều 5 pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 quy định trong trường hợp các bên có thỏa thuận trọng tài thì tòa án phải từ chối thụ lý tranh chấp, trừ trường hợp thỏa thuận đó vô hiệu. Tuy nhiên, Điểm b Tiểu mục 1.2 Mục 1 Nghị quyết 05 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lại đưa ra một tình huống mới không có trong pháp lệnh: Nếu nguyên đơn thông báo cho bị đơn biết về việc kiện ra tòa mà bị đơn không phản đối trong bảy ngày thì coi như hai bên đã có sự lựa chọn mới là để tòa giải quyết tranh chấp thay cho trọng tài. Vụ này hiện nay vẫn đang trong quá trình tranh luận để chọn cơ quan thẩm quyền xử án![11]
- Hay như tình trạng thông tư “đá” nghị định về thẩm quyền công chứng như sau: Theo điểm c khoản 1 Điều 119 Nghị định 181 ngày 29-10-2004 của Chính phủ, đối với những hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa tổ chức với cá nhân, các bên có quyền chọn lựa hoặc đến phòng công chứng để chứng nhận hoặc đến UBND cấp xã (nơi có đất) để chứng thực. Quy định này vẫn được giữ nguyên khi Chính phủ ban hành Nghị định 17 năm 2006 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 181. Cho đến ngày 13-6-2006, khi Bộ Tư pháp cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 04 hướng dẫn thẩm quyền công chứng, chứng thực các giao dịch đất thì mọi sự đã thay đổi. Cụ thể, nếu bên có bất động sản là tổ chức trong nước thì hợp đồng phải được công chứng tại phòng công chứng, không được đến UBND cấp xã[12]. Thông tư này rõ ràng và dễ áp dụng nhưng ngặt nỗi lại “đá” nghị định lại trở thành làm khổ dân. Dân đang đứng “giữa hai con đường” không biết theo ai. Hồ sơ nộp đến cơ quan chức năng thì vẫn nằm đấy do cơ quan không bíêt áp dụng văn bản nào và không dám chứng vì sợ mình không có thẩm quyền! Tuy nhiên, vụ việc vẫn chưa có cơ quan chức năng nào lên tiếng!
Đó là một thực tế bất cập về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: trái Hiến pháp, “đá” nhau…Đó là những minh chứng cho thấy cơ chế giám sát hiện nay chưa hiệu quả! Đó là một cơ chế bảo hiến chưa hữu hiệu. Vấn đề đặt ra lúc này là tìm một mô hình bảo hiến hữu hiệu cho Việt Nam. Chúng ta phải xây dựng một mô hình bảo hiến như thế nào, có thể áp dụng mô hình bảo hiến của thế giới vào Việt Nam hay không? Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các mô hình bảo hiến của thế giới để học tập kinh nghiệm và xây dựng mô hình, xây dựng cơ chế bảo hiến phù hợp với mình. Phần tiếp theo dưới đây, chứng tôi sẽ luận bàn về vấn đề này.

3. Tòa án Hiến phápcơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam hiện nay

3.1. Các cơ chế bảo hiến trên thế giới[13]
Các cơ chế bảo hiến trên thế giới hiện nay được thể hiện qua các mô hình sau đây: mô hình Mỹ, mô hình Châu Âu và mô hình hỗn hợp Âu-Mỹ.
Mô hình Mỹ (mô hình phi tập trung):Đây là mô hình giám sát Hiến pháp với Tài phán Hiến pháp không tách rời mà nằm trong hệ thống Tòa án. Mô hình này thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này có ưu điểm là bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Nhược điểm của mô hình này: phán quyết của Tòa án về tính hợp hiến chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật được Tòa án xác định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó không còn giá trị áp dụng và chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các Tòa án cấp dưới, nếu là phán quyết của Tòa án tối cao thì có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư pháp. Như vậy, Tòa án không có thẩm quyền hủy bỏ đạo luật bị coi là trái với Hiến pháp và về hình thức đạo luật đó vẫn còn hiệu lực nhưng trên thực tế sẽ không được Tòa án áp dụng vì truyền thống án lệ. Ở Mỹ không có phân biệt án cho các loại toà và đều do một thẩm phán xét xử.,đặc trưng của cơ chế tài phán hệ thống Toà án Mỹ: sự kiểm tra mang tính phổ biến (đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định hành chính), mỗi toà án đều có chức năng kiểm tra, giám sát, phán quyết về tính hợp hiến khi xem xét các vụ việc cụ thể, phán quyết của Toà án trong những trường hợp đó khôg mang tính phổ biến đối với mọi trường hợp trước đó mà chỉ có giá trị đối với các bên đương sự. Tức là quy phạm pháp luật trong trường hợp này không bị bãi bỏ. Tuy nhiên, với truyền thống án lệ thì nó gần như mất hiệu lực trên thực tế.
Mô hình Châu Âu (mô hình tập trung): Theo mô hình này các nước châu Âu quyền giám sát Hiến pháp được trao cho các cơ quan bảo hiến chuyên trách (Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến…) có vị trí độc lập với quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thẩm phán là những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, được bổ nhiệm hay bầu theo một chế độ đặc biệt.
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về Hiến pháp theo thỉnh cầu trực tiếp của các tổ chức chính trị, các Toà án thậm chí là của cá nhân. Quyết định của Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến có giá trị bắt buộc.
Giám sát Hiến pháp ở châu Âu kết hợp việc giải quyết các vụ việc cụ thể đồng thời giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của các cơ quan có thẩm quyền.
Ở đây, rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai mô hình trên. Nguyên nhân của sự khác biệt đó là gì? Có rất nhiều nguyên nhân. Chủ yếu là những nguyên nhân sau đây[14]:
Một là, nhận thức về đạo lụât: đối với các nước châu Âu lục địa, luật thành văn có giá trị to lớn, được coi là quy tắc thực định bắt buộc phổ biến. Nếu như ở Anh, Mỹ, Hiến pháp và sau đó là thực tiễn xét xử của các Toà án thì ở châu âu lục địa, thì Hiến pháp rồi sau đó là đạo luật dựa trên Hiến pháp. Các đạo luật chỉ phải phù hợp với Hiến pháp. Do đó, các Toà án và các thủ tục không thể được coi là nguồn phn xét về tính hợp pháp của các đạo luật. Chức năng đó phải di những người có thẩm quyền cao hơn, có tầm nhìn và uy tín thực hiện.
Hai là, Châu Âu lục địa quan niệm các Thẩm phán như các quan chức hành chính, hưởng lương và các danh lợi. Cho nên, không thể cưỡng được sức mạnh của các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Ba là, Châu Âu thường có sự chuyên môn hoá các Thẩm phán theo loại vụ án và do đó tầm nhìn của các Thẩm phán bị hạn chế bởi lĩnh vực chuyên môn hẹp, không rộng như Tài phán Anh-Mỹ. Mô hình tài phán Hiến pháp kiểu Mỹ chỉ phù hợp khi không có sự chuyên môn hoá kiểu châu Âu.
Bốn là, về cơ cấu thẩm quyền nếu như ở Mỹ, Quốc Hội không thể một mình thay đổi luật mà cần phải có cácchế định về quyền phủ quyết của Tổng thống và cả của Toà án tối cao thì ở các nước châu Âu, việc sửa một đạo luật đối với Quốc hội là điều đơn giản khi chỉ cần một đa số bình thường của các nghị sĩ và với đa số đó, đạo luật có thể phủ quyết luôn cả phán quyết của toà án nếu Toà án tuyên bố đạo luật không hợp Hiến.
Ngoài hai mô hình bảo hiến nói trên, còn có mô hình bảo hiến kiểu hỗn hợp Âu-Mỹ: Đây là mô hình kết hợp những yếu tố của cả hai mô hình kiểu châu Âu và kiểu Mỹ. Theo mô hình này, thẩm quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách (tòa án Hiến pháp) và cà các Tòa án thuộc hệ thống tư pháp, trong đó thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp và Tòa án Tối cao đối với những vụ việc cụ thể được quy định ngay trong Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một vụ việc cụ thể có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo luật được cho là không phù hợp.
Nói tóm lại, các mô hình bảo hiến chủ yếu trên thế giới dù có khác nhau nhưng đều có chung mục đích là bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Các mô hình đều có những ưu khuyết điểm riêng. Nhưng đó đều là mô hình bảo hiến theo cơ chế phán quyết của Toà án (cơ chế phán quyết). Còn mô hình bảo hiến của chúng ta hiện nay là cơ chế giám sát, không phải là phán quyết. Chúng ta cũng chưa có một cơ quan tài phán Hiến pháp, gọi là toà án Hiến pháp. Thiết nghĩ đây là một nhu cầu mang tính thực tiễn hiện nay và chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm của các mô hình nói trên để xây dựng mô hình Việt Nam.
 3.2. Toà án Hiến phápcơ chế bảo hiến cần dược lựa chọn ở Việt nam hiện nay

Nhận thấy được yêu cầu của thực tiễn cũng như tầm quan trọng của cơ chế bảo hiến hữu hiệu, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam, báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (ngày 10/04/2006) đặt ra yêu cầu: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám xác tính hợp hiến, hợp pháp của các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền; “xây dựng cơ chế phán quyết về những hành vi vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Quan điểm của Đảng ta đã khẳng định chúng ta phải có một cơ chế phán quyết. Đó là một định hướng tiến bộ và đúng đắn, phù hợp yêu cầu thực tế. Đó là định hướng tài phán Hiến pháp. Đây là một định hướng để xây dựng Nhà nước pháp quyền vì tài phán Hiến pháp được xem là “vương miện của Nhà nước ph p quyền”.
Hiện nay, có 3 phương án khác nhau về cơ chế tài phán hiến pháp ở nước ta[15]:
· Phương án 1: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực thuộc Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện việc bảo hiến đối với các văn bản pháp luật do Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chính quyền địa phương ban hành. Thành viên của ủy ban giám sát hiến pháp phải là các đại biểu Quốc hội được bầu theo thủ tục thông thường. Ủy ban giám sát hiến pháp có trách nhiệm trình báo cáo kết quả giám sát của mình để Quốc hội xem xét và quyết định.Với mô hình ủy ban giám sát hiến pháp này, Quốc hội tiếp tục được khẳng định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về thực chất ủy ban giám sát hiến pháp chỉ là một cơ quan thuộc Quốc hội, một cơ cấu mang tính giúp việc chứ không thể trở thành một cơ cấu có quyền quyết định về tính hợp hiến của các văn bản pháp luật được giám sát. Đối tượng giám sát của ủy ban giám sát hiến pháp cũng chỉ là các văn bản pháp luật từ pháp lệnh trở xuống. Như vậy các đạo luật vẫn nằm ngoài sự giám sát tính hợp hiến của chúng. Do vậy hoạt động thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội về cơ bản vẫn không phải là đối tượng giám sát nhìn từ yêu cầu đòi hỏi của nguyên tắc về tính tối cao và bất khả xâm phạm của hiến pháp.
· Phương án 2: Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, theo đó Tòa án nhân dân tối cao được trao quyền bảo vệ hiến pháp. Để thực hiện được thẩm quyền bảo vệ hiến pháp, Tòa án nhân dân tối cao cần được quy định lại về vị trí, chức năng trong bộ máy nhà nước, bỏ bớt một số chức năng hiện hành để tập trung vào chức năng bảo vệ hiến pháp; cơ cấu lại số lượng, chất lượng, thành phần và phương thức bổ nhiệm đặc biệt đối với các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để đảm bảo năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp của mỗi một thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm thiêng liêng là bảo vệ hiến pháp trước mọi sự xâm hại có thể xảy ra.Dù cơ quan bảo hiến sẽ được thiết lập theo mô hình nào chăng nữa, thì việc xuất hiện một cơ quan bảo hiến sẽ làm thay đổi nội dung và phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta.
· Phương án 3: Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội, thực hiện độc lập các hoạt động giám sát tính hợp hiến của các hoạt động nhà nước, cả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Đây là một phương án khá phổ biến trong nhiều mô hình nhà nước pháp quyền trên thế giới. Tính độc lập của cơ quan bảo vệ hiến pháp (có thể là hội đồng bảo hiến, tòa án hiến pháp...) được đảm bảo bởi tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, mô hình cơ quan bảo hiến độc lập này còn phải gắn liền với vai trò giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía Đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản VN. Nếu phương án này được xây dựng thì khả năng độc lập và sức mạnh tài phán của cơ quan bảo hiến này được đảm bảo trước hết bởi Đảng Cộng sản VN.Với mô hình này, người đứng đầu cơ quan bảo hiến (có thể là tòa án hiến pháp) sẽ do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, các thành viên của các cơ quan này có thể do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch nước.Cơ chế bảo hiến với mô hình cơ quan bảo hiến độc lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ phải được nhận thức lại.
Cơ chế đã có, nhưng để lựa chọn một mô hình thích hợp thì cần phải căn nhắc. Để có thể lựa chọn mô hình, cần thiết phải học tập kinh nghiệm thế giới vì họ đi trước ta đồng thời phải nhận thấy ưu khuyết điểm của từng mô hình để lựa chọn mô hình phù hợp nhất.
Tuy nhiên, dù theo mô hình nào thì cũng phải triệt để quan điểm : Triệt để đảm bảo bản chất Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối tránh chệch hướng xã hội chủ nghĩa; Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo (thực tế cơ chế này do Đảng ta khởi xướng); bảo đảm nguyên tắc độc lập, cơ quan thực hiện quyền tài phán Hiến pháp phải có khả năng độc lập trong việc đưa ra phám quyết về tranh chấp, vi phạm Hiến pháp.
Sau đây là những ưu khuyết điểm của các phương án trên[16]:
Về phương án 1, ưu điểm của phương án này là không làm cồng kềnh thêm bộ máy nhà nước hiện hành, thành lập thêm Ủy ban giám sát Hiến pháp của Quốc hội cũng tương tự như vừa qua Quốc hội quyết định thành lập thêm Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Tài chính - Ngân sách được tách ra từ Ủy ban pháp luật và Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội. Thành lập cơ quan này không cần sửa đổi Hiến pháp, chỉ sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Quốc hội vẫn giữ được vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vẫn thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương án này là các đạo luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành vẫn chỉ do chính Quốc hội tự giám sát tính hợp hiến của chúng. Trong trường hợp Quốc hội không bãi bỏ luật, nghị quyết của Quốc hội trái với Hiến pháp, không có biện pháp pháp lý nào xử lý được. Cơ chế Quốc hội tự kiểm tra, giám sát chính mình là cần thiết, nhưng thực tế đã chỉ ra rằng sự kiểm tra, giám sát này không phải bao giờ cũng khách quan, cũng đúng. “Không ai tự ban phát công lý cho chính mình” là điều cần suy nghĩ. Ngay như Quốc hội Mỹ, quy trình ban hành một đạo luật rất chặt chẽ (một dự luật muốn được thông qua phải được đa số tán thành của Hạ viện trước, rồi sau đó là đa số Thượng viện tán thành (hoặc ngược lại), tiếp theo còn phải được Tổng thống kiểm tra, xem xét lại xem có cần phủ quyết hay không, nếu không phủ quyết dự luật mới được Tổng thống ban bố để thi hành). Vậy mà, trong khoảng 190 năm qua, TATC[17] của Mỹ đã ra phán quyết tuyên bố 122 đạo luậtcủa Quốc hội Mỹ (trong tổng số hơn 35.000 đạo luật được Quốc hội này ban hành trong thời gian nói trên) có toàn bộ hoặc một phần nội dung quy định vi phạm Hiến pháp Mỹ. Cũng trong thời gian nói trên có gần 950 đạo luật của Quốc hội các bang bị TATC Mỹ tuyên bố vi phạm Hiến pháp của Liên bang.
Còn nếu trao cho Ủy ban này quyền giám sát các đạo luât, nghị quyết của Quốc hội, thì không tương xứng và khách quan khi đây chỉ là một cơ quan giúp việc cho Quốc hội.
Vì vậy, có thể nói đây là phương án có tính chất nửa vời, nhưng là phương án có lẽ dễ được nhiều người chấp nhận, vì nó không có sự thay đổi gì nhiều so với hiện tại, phù hợp với cách nghĩ của một số người là "cần phải có lộ trình từng bước".
Nhân đây cũng xin nói thêm rằng: lịch sử hoạt động của Quốc hội nước ta những năm qua đã từng có những quyết định mang tính thỏa hiệp, nửa vời, không giải quyết triệt để những vấn đề mới dù vấn đề đó có căn cứ và cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn.
Về phương án 2, Tòa án rõ ràng “có nghề”' nhưng lại vướng ở chỗ, TATC chỉ là một nhánh của quyền lực. TATC giám sát, phán xét tính hợp hiến các đạo luật của Quốc hội không phải dường như mâu thuẫn với quy định của Hiến pháp hiện hành: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”, “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao” (Điều 83 và Điều 84 của Hiến pháp) như một số người e ngại. Vì chúng ta có thể sửa đổi những quy định này của Hiến pháp hiện hành, mà theo tôi[18] là để “phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” như Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra, không thể trao cho TATC thẩm quyền này. Hơn nữa, theo tôi, chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính của TATC hiện nay và trong tương lai ở nước ta còn quá tải, nên TATC của nước ta không thể chuyên tâm chăm lo lĩnh vực mới là giám sát Hiến pháp và phán quyết các vi phạm Hiến pháp được. Đấy là chưa kể yêu cầu về: tiêu chuẩn thẩm phán, số lượng thẩm phán, cách thức bổ nhiệm thẩm phán, nhiệm kỳ của thẩm phán, thủ tục tố tụng... của TATC (Tòa án tư pháp) và Tòa án Hiến pháp nếu được thành lập ở nước ta sẽ là rất khác nhau.
Về phương án 3, Theo phương án này, Tòa án Hiến pháp sẽ là một thiết chế hoàn toàn mới trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta, được thành lập ra để chuyên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Chánh án và các Thẩm phán Tòa án Hiến pháp với một nhiệm kỳ duy nhất và dài (10 hay 15 năm và không được tái bổ nhiệm) có thể sẽ do Chủ tịch nước bổ nhiệm sau khi được Quốc hội chuẩn y. Nhiệm kỳ Tòa án Hiến pháp khi phán quyết về các vi phạm Hiến pháp (hay không vi phạm) trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp là theo nguyên tắc độc lậpchỉ tuân theo Hiến pháp (tác giả nhấn mạnh – T.Đ.L.) chứ không phải tuân theo pháp luật như Tòa án nhân dân các cấp khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế… Tính độc lập của cơ quan bảo vệ Hiến pháp đảm bảo tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Thành lập Tòa án Hiến pháp để phán quyết các vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp là phương án được áp dụng khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới những năm gần đây, như trên đã nêu. Tuy nhiên, cơ quan bảo hiến độc lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ phải được nhận thức lại.
Từ ba phương án nói trên, tôi ủng hộ phương án thành lập Tòa án Hiến pháp độc lập. Vì hoạt động của Tòa án Hiến pháp nếu được thành lập sẽ bảo đảm tính khách quan, độc lập, hoạt động chuyên trách, theo thủ tục tố tụng Hiến pháp. Chỉ có cơ quan độc lập này mới có quyền “phán quyết về những vi phạm Hiến pháp cả trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”như Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định [19].
Chúng tôi cho rằng nhận định trên đã rất xác đáng và thấu đáo, không phải bàn luận gì thêm. Chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm đó, thành lập Toà án Hiến pháp ở Việt Nam. Đây chính là cơ chế bảo hiến hữu hiệu nên lựa chọn xây dựng ở nước ta. Tất nhiên muốn thành lập cũng phải có thời gian và chuẩn bị kỹ lưỡng và phải tiến hành nhiều việc. Trước hết để tạo cơ sở pháp lí cho việc này thì Hiến pháp cũng cần phải thay đổi và quy định lại. Do kiến thức còn hạn hẹp, chúng tôi xin trích dẫn đề xuất của PGS,TS. Trương Đắc Linh như sau: "cần nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp theo hướng kế thừa các quy định của Điều 21 và Điều 70 Hiến pháp năm 1946 về quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp và các sửa đổi Hiến pháp, tách chức năng lập hiến khỏi Quốc hội, Quốc hội không còn quyền vừa lập hiến, vừa lập pháp; không phải: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” như Điều 146 Hiến pháp 1992 hiện nay quy định. Việc sửa đổi Hiến pháp phải do nhân dân quyết định bằng trưng cầu ý dân. Dự thảo Luật trưng cầu ý dân lần thứ 10 (năm 2006) của nước ta cũng quy định theo hướng này.Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, quyền bãi bỏ các văn bản trái Hiến pháp của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao… mà Điều 83 và Điều 84 của Hiến pháp hiện hành cần được xem xét, sửa đổi.
Hiến pháp cần quy định ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, không quy định quá chi tiết (ví dụ liệt kê từng thành phần kinh tế như Điều 16 Hiến pháp hiện hành), nhưng bỏ bớt những quy định mang tính tuyên ngôn, tuyên bố vô thưởng, vô phạt và phiến diện (như Điều 6 và nhiều điều khác của Hiến pháp hiện hành). Các quy định của hiến pháp phải có hiệu lực trực tiếp…"
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải chuẩn bị về mặt tổ chức, phương thức hoạt động của Toà án hiến pháp. Trước hết, đây phải là một cơ quan độc lập thật sự. Mặc dù đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng hoạt động độc lập, hoạt động trên cơ sở của Hiến pháp và chỉ tuân thủ theo Hiến pháp. Cơ quan này được xem là "người phát ngôn" của Hiến pháp, nhân danh hiến pháp để phán quyết về các hành vi vi hiến.
Đã là Toà án thì thành phần không thể thiếu là Chánh án và các thẩm phán. Đây là một vấn đề về nhân lực không phải dễ giải quyết. Chánh án và Thẩm phán của Toà án Hiến pháp phải là những người giỏi thực sự, am hiểu pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp, có phẩm chất tốt đẹp, phải thật sự phụng công thủ pháp, chí công vô tư. Theo kinh nghiệm thế giới, các thẩm phán thường được lựa chọn từ bốn nguồn: các thẩm phán đang có, các giáo sư luật học, các luật sư, các nhà chính trị gia nhiều kinh nghiệm. Tuỳ bối cảnh chính trị, năng lực chuyên môn, uy tín xã hội của từng nhóm, mà các quốc gia quy định khác nhau về tỷ lệ lựa chọn bốn nguồn nói trên[20].
Cách thức bổ nhiệm, nhiệm kỳ của thẩm phán cũng là vấn đề cần giải quyết. Bổ nhiệm phải đảm bảo Thẩm phán được chọn không quá lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, chủ yếu là lập pháp để dễ dàng phán quyết sau này. Đây là vấn đề khó, đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Cơ quan nào đứng ra bổ nhiệm là hợp lí? Chỉ Quốc hội, Chủ tịch nước hay cả Quốc hội, chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao cùng bổ nhiệm? cách thức bổ nhiệm được nhiều người đề xuất hiện nay là Quốc hội chuẩn y, Chủ tịch nước bổ nhiệm. Về nhiệm kỳ thẩm phán, nhiều nước bổ nhiệm thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời. Tuy nhiên, quy định như vậy cũng có hạn chế là nếu thẩm phán này tỏ ra bảo thủ, lạc hậu thì đành chịu! đó chính là kinh nghiệm của Mỹ, khi họ có một thời được gọi là chính phủ của những ông Tòa”! Ở nước ta, có lẽ nên bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài thích hợp (có thể là 10 đến 15 năm và không được tái bổ nhiệm[21]), điều này tạo sự linh hoạt mềm dẻo.
Nói đến cơ chế phán quyết của Toà án thì cũng phải có quy trình xét xử và thẩm quyền xét xử. Để mở phiên toà Hiến pháp thì phải có khiếu kiện. Chủ thể khiếu kiện có thể là các cơ quan Nhà nước hoặc công dân nếu nhận thấy có những hành vi vi phạm Hiến pháp. Thẩm quyền xét xử của Toà án Hiến pháp là xét xử các vụ việc vi phạm nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp, xem xét về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền Hiến định giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất...Ngoài ra, Toà án Hiến pháp còn xác nhận kết quả bầu cử Quốc hội, kết quả trưng cầu dân ý, giải thích Hiến pháp, giải quyết tranh chấp về địa giới đơn vị hành chính giữa các tỉnh. Toà án phán quyết bằng cách ra bản án Hiến pháp. Không những vậy, Toà án Hiến pháp còn có thể và nên được có thẩm quyền thẩm quyền kiểm tra trước tính hợp Hiến trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, không nên hạn chế họat động của cơ quan này chỉ là xử án hiến pháp. Toà án Hiến pháp sẽ kiểm tra các dự luật trước khi Quốc hội thông qua hoặc trước khi nguyên thủ quốc gia công bố. Điều này sẽ đảm bảo hạn chế tối thiểu khả năng vi Hiến của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
Xung quanh việc thành lập Tòa án Hiến pháp còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn Việt Nam cần phải tranh luận. Một vài vấn đề đặt ra là Tòa án Hiến pháp đứng ở đâu trong các nhánh quyền lực? Việc lập ra Tòa án Hiến pháp có vai trò mật thiết của Quốc hội, Quốc hội lập ra Tòa án Hiến pháp thì thiết chế nào "to hơn"? Tòa án hiến pháp phán quyết về họat động lập pháp của Quốc hội trong khi Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thì có mâu thuẫn không? v.v... Ở đây, chúng tôi cũng có thêm vài ý kiến về những vấn đề được nêu ra cụ thể trên đây. Thứ nhất, Tòa án Hiến pháp không phải là một thiết chế như các Tóa án thông thường. Phải khẳng định rằng Tòa án Hiến pháp là một thiết chế độc lập, không nằm trong các nhánh quyền lực truyền thống. Bởi vì Tòa án Hiến pháp là "người nhân danh" Hiến pháp, bảo vệ lợi ích của hiến pháp. hiệm vụ chính của thiết chế này là như vậy và một số thẩm quyền khác kiên quan đến nội dung, tinh thần của Hiến pháp. Nó có thể được xem là "quyền lực thứ tư" như một số người nhận định. Thứ hai, không nên đặt vấn đề Tòa án Hiến phápQuốc hội "ai to hơn?" vì đây không phải là quan hệ trực thuộc hay theo quan hệ chiều dọc. Ở đây là hai thiết chế độc lập có liên quan.Đã độc lập thì việc xác định "to" hơn không quan trọng nữa vì các thiết chế có chức năng khác nhau. Hơn nữa, chỉ có Hiến pháp mới "to" thật sự. Quốc hội hay Tòa án Hiến pháp đều tuân thủ Hiến pháp cả. Thứ ba, không có sự mâu thuẫn khi Tòa án Hiến pháp phán quyết về họat động lập pháp của Quốc hội, cụ thể ở đây là phán quyết về các văn bản quy phạm pháp luật...Chẳng những không mâu thuẫn mà còn thống nhất vì Tòan án hiến pháp phán quyết hay Quốc hội lập phá đều nhằm mục đích đặt Hiến pháp - ý chí của nhân dân - lên tối cao, bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm đặc trưng của Nhà nước pháp quyền. Hơn nữa, nhân dân mới là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thực chất là đại diện nhân dân, theo sự ủy thác của nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước. Như đã khẳng định, Tòa án hiến pháp không là các nhánh quyền lực Nhà nước mà Quôc hội cũng không là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Cho nên không có sự mâu thuẫn ở đây.
Chúng tôi mong muốn sẽ có thể luận bàn nhiều hơn nữa về các vấn đề liên quan đến cơ chế bảo hiến ở Việt Nam nhưng năng lực có hạn nên chúng tôi tạm dừng bài viết này ở đây. Nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
 PHẦN KẾT LUẬN

Trên đây là một vài luận bàn của chúng tôi về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay. Tất nhiên, đó chỉ là những khía cạnh nhất định chứ chưa thể toàn diện, bao quát được. Hơn nữa, với tri thức còn hạn hẹp việc bàn luận đó cũng chưa thật sự sâu sắc. Tuy nhiên, những gì đã bàn có thể giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về cơ chế bảo hiến của nước ta hiện nay cĩng như phương hướng trong tương lai. Cơ chế bảo hiến nước ta hiện nay là mô hình giám sát bởi Quốc hội, Quốc Hội giám sát tối cao, đồng thời các cơ quan khác cũng tham gia giám sát tạo nên cơ chế giám sát đa chủ thể. Như đã phân tích, cơ chế này tỏ ra không hiệu quả vì "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa", "cha chung không ai khóc". Và chúng ta đang hướng đến cơ chế Tài phán Hiến pháp theo tinh thần của Đại hội X. Hiện có 3 phương án là: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực thuộc Quốc hội, Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội. Mô hình đuợc ưu tiên lựa chọn là theo phương án 3 vì nó phù hợp hơn cả.
Trong bài viết này, chúng tôi cũng đã đề cập đến một vài việc làm thiết yếu để có một Toà án Hiến pháp. Tuy nhiên, dù đã rất cố gắng, nỗ lực nhưng không tránh khỏi thiếu sót, có nhiều vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm và trao đổi nhiều hơn. Chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục những hạn chế của mình nếu có điều kiện nghiên cứu sâu hơn.
(Xếp theo thứ tự tên tác giả)

I. Sách tham khảo:

1. Ngô Huy Cương, Dân Chủ và Pháp Luật Dân Chủ, NXB Tư Pháp, Hà Nội, 2004

2. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2008

3. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Quốc Hội Việt Nam Trong Nhà nước pháp quyền, NXB đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007

4. Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, NXB Tư Pháp, Hà Nội, 2005

5. Đào Trí Úc (chủ biên), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội, 2007.
II. Tạp chí:

1. Bùi Xuân Đức, Bàn vè Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, từ giám sát bởi Quốc Hội chuyên sang Tài phán bằng Toà án Hiến pháp

2. Võ Trí Hảo- Hà Thu Thuỷ, Về lý luận của việc thành lập Toà án Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số tháng 4/2008

3. Trương Đắc Linh, Cơ chế giám sát Hiến pháp theo các Hiến pháp Việt Nam và vấn đề xây dựng Tài phán ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 1/2007

4. Trương Đắc Linh, Bàn về Tài Phán Hiến Pháp và thẩm quyền cỉa cơ quan tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, tạp chí khoa học pháp lý, số tháng 3/2007

5. Lương Minh Tâm, Họat động của Quốc hội với vấn đề bảo hiến ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 1/2006

6. Vũ Thư, Về Việc xác lập định chế tài phán Hiến pháp ở nước ta, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 11/2006

7. Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 10/2006.
III. Websites:

1. http://www.vocw.edu.vn/content/m10814/latest/

2. http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2006/03/3B9E80E7/

3. http://vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/03/550445/

4. http://www.vnlawfind.com.vn/default....D=1140&CateID=

5. http://360.yahoo.com/luudquang
 [1]Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

[2] Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2008, trang 211

[3] Trương Đắc Linh, Bàn về tài phán Hiến pháp và thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 3/2007

[4] Từ điển Bách khoa tòan thư Việt Nam, http://dictionary.bachkhoatoanthu.go...mIlOTlp&page=1

[5] Xem Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005.

[6] Phần này có tham khảo, viện dẫn từ bài viết “Khái quát về Hiến Pháp và lịch sử lập hiến Việt Nam” c ủa PGS.TS. Trương Đắc Linh, giảng viên khoa Luật Hành Chính, Trường đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.

[7] Ở đây là Hiến pháp hiện hành, đã sửa đổi, bổ sung năm 2001

[8] Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2006.

[9] Đào Trí Úc (chủ biên), mô hình tổ chức và họat động của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007, trang 500.

[10] Trương Đắc Linh, Bàn về Tài phán Hiến pháp vè thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 03/2007

[11] Bài phản ánh trên báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh, số ra ngày 5/6/2008

[12] Bài phản ánh trên báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, số ra ngày 8/6/2008

[13] Phần này có tham khảo, viện dẫn từ bài viết “Cơ chế bảo hiến trong Nhà nước pháp quyền” của tác giả Trần Thị Hạnh Dung, http://www.vocw.edu.vn/content/m10814/latest/

[14] Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 10/2006

[15] http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2006/03/3B9E80E7/

[16] Trương Đắc Linh, Bàn về Tài phán Hiến pháp vè thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 03/2007

[17] Toà án tối cao

[18] Tức Trương Đắc Linh

[19] Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án Hiến pháp với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, ở một số nước ngoài việc bổ nhiệm thẩm phán với nhiệm kỳ dài 9 - 15 năm và không được tái bổ nhiệm (như Hungary, Rumani: 9 năm, CHLB Đức: 12 năm, LB Nga: 15 năm v.v.), trụ sở Tòa án Hiến pháp còn được đặt biệt lập hẳn với những cơ quan này, cách xa Thủ đô hàng nghìn ki-lô-mét. Như Tòa án Hiến pháp CHLB Đức đóng ở thành phố Karlsruhe cách Berlin hơn nghìn ki-lô-mét; hay năm 2006, Liên bang Nga đã quyết định dời Tòa án Hiến pháp từ Thủ đô Matxcơva về thành phố Sanh Petecbua để cơ quan này không chịu sự chi phối, tác động, quan hệ gần gũi với các thiết chế quyền lực khác [chú thích của Trương Đắc Linh]

[20] Võ Trí Hảo- Hà Thu Thuỷ, Về lý luận của việc thành lập Toà án Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số tháng 4/2008

[21] Trương Đắc Linh, Bàn về Tài phán Hiến pháp vè thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 03/2007

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code