Monday, September 23, 2013

Lưỡng đầu chế - mô hình nguyên thủ quốc gia độc đáo trong lịch sử

Mô hình lưỡng đầu chế xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta, lần đầu tiên vào năm 40. Mùa xuân năm ấy, hai chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị khởi nghĩa chống ách độ hộ của nhà Đông Hán, chiếm giữ 65 thành, giải phóng lãnh thổ quốc gia và thiết lập chính quyền tự chủ. Hai Bà Trưng cùng xưng vương, cùng làm vua, ăn ở sinh hoạt cùng nơi và cùng nhau trị vì đất nước. Sưu tầm: Nguyễn Anh Hùng

Chị-em, anh-em cùng trị nước

Mô hình lưỡng đầu chế xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta, lần đầu tiên vào năm 40. Mùa xuân năm ấy, hai chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị khởi nghĩa chống ách độ hộ của nhà Đông Hán, chiếm giữ 65 thành, giải phóng lãnh thổ quốc gia và thiết lập chính quyền tự chủ. Hai Bà Trưng cùng xưng vương, cùng làm vua, ăn ở sinh hoạt cùng nơi và cùng nhau trị vì đất nước. Vai trò, địa vị của họ trong cuộc khởi nghĩa và trong Chính phủ mới khá bình đẳng. Tuy nhiên, theo một số sử liệu thì uy tín, quyền lực của Trưng Trắc lớn hơn Trưng Nhị chút ít (có lẽ do Trưng Trắc là chị và là người đầu tiên phát động khởi nghĩa). Chẳng hạn, sách Thuỷ kinh chú viết: nghĩa quân "công phá châu quận, hàng phục được các Lạc tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua". Thể chế này tồn tại đến mùa xuân năm 43 - tận lúc hai bà Trưng mất trong cuộc chiến không cân sức với lực lượng của Mã Viện.

Hơn 9 thế kỷ sau, mô hình lưỡng đầu chế được tái lập dưới thời Ngô. Năm 944. Vua Ngô Quyền băng hà, em vợ là Dương Tam Kha nhân cơ hội đó chiếm ngôi. Năm 951, dẹp xong Dương Tam Kha, hai con trai Ngô Quyền cùng lên làm nguyên thủ. Người anh (Ngô Xương Ngập) xưng Thiên Sách Vương, người em (Ngô Xương Văn) xưng Nam Tấn Vương. Họ đoàn kết cùng nhau trị vì đất nước. Năm 954, Ngô Xương Ngập mất, Ngô Xương Văn một mình ở ngôi nên thế lực yếu dần, phải nhận sắc phong làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ kiêm Đô hộ của nhà Nam Hán, đồng thời bị các cuộc nổi loạn ở khắp nơi trong nước uy hiếp... Năm 965, Ngô Xương Văn tử thương và cơ đồ triều Ngô chấm dứt từ đó.

Hai mô hình lưỡng đầu chế trên được thiết lập chủ yếu do tình huynh đệ và do điều kiện lịch sử khách quan (Trưng Trắc-Trưng Nhị cũng phát động, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa; Ngô Xương Ngập - Ngô Xương Văn cùng họp sức lấy lại vương nghiệp của vua cha... Khi mọi sự thành công, họ cùng bình đẳng hưởng kết quả là hoàn toàn xứng đáng, hợp lý). Tuy nhiên, hai mô hình này đều tồn tại trong thời gian ngắn ngủi (chừng 3 năm) và chưa phải là một loại thể chế ổn định.

Cha-con cùng làm vua

Giữa thế kỷ XIII, một mô hình lưỡng đầu chế mới lạ - hầu như chưa từng xuất hiện trong lịch sử các nước, nhất là Trung Hoa (vốn được coi là chế độ kiểu mẫu phương Đông thời bấy giờ) - được thiết lập ở nước ta, tồn tại vững chắc và kéo dài một thế kỷ rưỡi (1258-1407). Đó là mô hình thượng hoàng, hoàng đế: hai cha con cùng làm nguyên thủ. Hoàng đế (con) là nguyên thủ thực sự, đứng đầu quốc gia, mang danh nghĩa thiên tử, còn thượng hoàng (cha) là nguyên thủ cố vẫn tối cao, có thực quyền (cả về chính trị lẫn về huyết thống) đối với hoàng đế.

Vị vua khai nghiệp nhà Trần (Trần Thái Tôn) sau 33 năm ở ngôi hoàng đế thì truyền ngôi cho con (Thái tử Trần Hoảng) rồi lên làm thượng hoàng. Những vị vua tiếp sau đều theo lệ ấy - cứ làm hoàng đế một thời gian rồi truyền lại ngôi cho thái tử, trở thành thượng hoàng. Dù các vua lúc lên ngôi đã trưởng thành hay còn ít tuổi (vua Minh tôn lên ngôi lúc 15 tuổi, Hiếu Tôn -10 tuổi, Dụ Tôn -6 tuổi, Thuận Tôn -11 tuổị..) thì đều có vua chú, vua anh giúp đỡ, chỉ đạ việc điều hành quốc gia. Hoàng đế càng nhỏ tuỏi, ốm yếu, kém tài.. thì vai trò của thượng hoàng càng quan trọng. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", các vua Trần khi "con đã lớn thì cho nối ngôi chính, còn cha lui về cung Thánh Từ, xưng là thượng hoàng, cùng trộng coi chính sự. Thực ra, truyền ngôi chỉ để yên việc sau, phòng lúc vội vàng, chứ mọi chuyện đều do thượng hoàng quyết định. Vua kế vị không khác gì hoàng thái tử cả". Tổng cộng thời gian các vua Trần trị vì mà bên trên còn thượng hoàng và thái thượng hoàng là 102 năm (thái thượng hoàng là cha của thượng hoàng, trước đó đã nhường ngôi cho thượng hoàng).

Thượng hoàng và hoàng đế tuy có danh xưng, vai trò, địa vị, quan hệ... khác nhau nhưng cùng là nguyên thủ, cùng trị vì quốc gia nên trong sử sách, nhiều khi học được gọi chung là hai vua. Chẳng hạn, ca ngợi thượng hoàng Trần Thánh Tôn và hoàng đế Trần Nhân Tôn qua chiến thắng quân xâm lược Mông Nguyên (1285-1288), trong "Bạch Đằng giang phú", tác giả Trương Hán Siêu viết;


Hai vua thánh chừ anh minh
Đem nước sông chừ rửa giáp binh
Bụi Hồ không dám động chừ ngàn năm thanh bình...
Còn trong "Đại việt sử ký toàn thư", Ngô Sỹ Liên cùng các sứ thần triều Hậu Lê cũng dùng từ hai vua khi viết về Hội nghị Diên Hồng tháng chạp năm Giáp Than 1284 ("Giặc Hồ vào cướp là nạn lớn của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn...") và về việc duyệt quân chuẩnbị đi đánh Chiêm Thành tháng mười năm Bính Thìn 1376 (".. đại duyệt quân thuỷ bộ ở bãi cát sống Bách Hạc, hai vua đích thân làm tướng").

Việc thiết lập mô hình thượng hoàng - hoàng đế là một kỹ thuật cai trị khôn khéo, cẩn thận của các vua Trần, vì thái tử cần có một thời gian làm quen, tập dượt việc triều chính; trong lúc đó thượng hoàng vẫn giữ vai trò lãnh dạo tối cao, quyết định mọi chuyện trọng đại. Cách tập dượt này toàn diện hơn so với ở các triều Ngô, đinh, Tiền Lê, Lý trước đó (chỉ cho thái tử thay vua cha làm quen với một số công việc như cầm quân đi diệt giặc, tổ chức đón tiếp sứ thần nước ngoài, giải quyết án kiện...) Mặt khác, truyền ngôi khi vua cha còn sống đảm bảo sự ổn định, suôn sẻ của việc nối ngôi, tránh những rắc rối từng thường xuyên gặp như chuyện các hoàng tử tranh giành ngôi (đẫm máu nhất là những cuộc tranh giành ngôi của các con vua Lê Đại Hành năm 1005, của các con vua Lý Thái Tổ năm 1028 - sau khi cha họ đột ngột băng hà) hoặc ngôi vua bị chiếm bởi người ngoại tộc (ngôi vua Ngô bị Dương Tam Kha chiếm năm 944 sau khi Ngô Quyền băng hà, ngôi vua Đinh mất vào tay Lê Hoàn năm 980 sau khi Đinh Tiên Hoàng băng hà...). Chế độ thượng hoàng - hoàng đế vừa giống các chế độ phụ chính, nhiếp chính vốn khá phổ biến trong lịch sử (nếu vua còn nhỏ hoặc năng lực kém thì có một vài quan đại thần làm cố vấn, giúp vua trị vì), lại vừa khác hẳn ở chỗ quan hệ huyết thống chặt chẽ (cha-con) và vị cố vấn vấn có quyền quyết định tối cao (đối với cả vua lẫn quốc gia), trực tiếp tham gia điều hành bộ máy Nhà nước, đảm bảo sự kế thừa liên tục và vững chắc, ngăn chặn những hiện tượng suy thoái hoặc biến loạn gây bất ổn định chính trị.

Mô hình thượng hoàng - hoàng đế của nhà Trần còn lặp lại ở các triều đại sau dó. Đoạt được ngôi nhà Trần (năm 1400), Hồ Quý Ly làm vua 1 năm rồi nhường ngôi cho con (Hồ Hán Thương), lên làm thượng hoàng đến tận lúc nhà Hồ bị diệt (năm 1407). Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Hậu Lê năm 1527, làm vua 3 năm rồi nhường ngôi cho Mạc Đăng Doanh, lên làm thượng hoàng, cùng con trị vì đát nước (1530-1541). Thời Lê mạt (Lê-Trịnh), Lê Thần Tôn cũng làm thượng hoàng (1643-1649) bên cạnh vị vua con là Lê Chân Tôn, nhưng mô hình lưỡng đầu chế thời kỳ này đã biến đổi sang một hình thức đặc biệt khác: vua Lê - chúa Trịnh.

Vua-chúa cùng làm nguyên thủ

Trong tất cả các mô hình lưỡng đầu chế kể trên, hai vị nguyên thủ đều có quan hệ huyết thống với nhau, chung mục đích và chung sự nghiệp, do đó hình thức là "lưỡng đầu" nhưng thực ra bản chất chế độ là một. Khác hoàn toàn với nó là mô hình vua Lê - chúa Trịnh, tồn tại suốt 240 năm (1546-1786) với nhiều biểu hiện, nhiều diễn biến phức tạp.

Năm 1527, Mặc Đăng Dung đoạt ngôi vua Lê. Quan đại thần nhà Lê là Nguyễn Kim chạy sang Lào, tôn Lê duy Ninh lên ngôi vua (năm 1532), lãnh đạo lực lượng chống lại nhà Mạc. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, quyền lực rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Năm 1546, Trịnh Kiểm cho tổ chức lại triều đình, chuyển về đóng đô ở Vạn Lại (Thộ Xuân- Thanh Hoá) mượn danh nghĩa "phù Lê diệt Mạc" để thâu tóm mọi quyền bính, biến vua Lê thành bù nhìn, mở đầu thời kỳ "vua Lê chúa Trịnh".

Từ sau khi đánh bại nhà Mạc (năm 1592), quyền lực của họ Trịnh ngày càng được mở rộng. Năm 1599, Trụnh Tùng tự xưng là Đô Nguyên soái Tổng quốc chính và ép vua Lê phong vương cho mình. Lê Thế Tôn phong cho Trịnh Tùng làm Bình An Vương cùng những đồ vật tượng trưng uy quyền tối caonhư chén ngọc, cờ lông,búa vàng. Trịnh Tùng lập phủ chúa, tự ý tuyển dụng quan lại, điều hành chính sự, chức vương cha truyền con nối. Chúa Trịnh là vị nguyên thủ thực sự, trực tiếp lãnh đạo bộ máy Nhà nước, nắm giữa quân đội, quyết định các chính sách kinh tế - văn hoá- xã hội... Họ tộc Trịnh được hưởng mọi đặc quyền hoàng gia. Con trai cả chúa Trịnh được lập làm thế tử, được phong làm Quốc công Tiết chế, đến tuổi trưởng thành thì mở phủ riêng, chủ huy quân đội, giúp cha trị vì.

Vua Lê là vụ nguyên thủ tối cao trên danh nghĩa. Quyền hạn của vua chỉ còn duy trì trong một số nghi thức thiết triều và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Vua được cấp 5.000 quân túc vệ để phục dịch trong cung điện, 7 thớt voi và 20 chiếc thuyền rồng, được thu thuế 1.000 xã để tiêu dùng. Triều định vua lê phải đặt dưới quyền điều khiển của phủ chúa Trịnh và chỉ có một nhóm binh lính canh giữ, một số quan văn võ vô quyền thỉnh thoảng vào chầu nhằm giữ lấy thể thống đế vương hình thức. Cạnh phủ chúa, triều dịnh chỉ như một cái bóng, thực chất chỉ là nơi giam lỏng vua Lê.

Sự hình thức, phụ thuộc của vua lê thể hiện rõ nhất ở việc tính mạng, địa vị vua hoàn toàn bị chúa Trịnh khống chế, vua ngày càng bị vô hiệu hoá. Trong 16 vua dưới thời Lê mạt thì 3 vua bị họ Trịnh giết hại và 5 vua là trẻ em dưới 12 tuổi (phần lớn là do chúa Trịnh nuôi nấng, rèn từ bé trong phủ rồi dựng lên làm vua). Năm 1718, Trịnh Cương thiết lập 6 phiên (Lễ, Lại, Hộ, Công, Hình, Binh) ở phủ chúa để rút hầu hết quyền hành của 6 bộ tương ứng (vốn coi là trực thuộc vua Lê bên triều đình. Ngay cả một số nghi thức tối cao dành riêng cho vua Lê cũng dần bị chúa Trịnh xâm phạm và huỷ bỏ. Dịp lễ Tết, sinh nhật vuạ.., chúa thường không trực tiếp đến chức mừng mà sai con mình đi thay. Trước kia, hàng tháng vào ngày sóc vọng, chúa và các quan phải vào chầu vua ở điện Vạn thọ, nhưng về sau chúa dần bỏ lệ ấy. Từ đời Trịnh Tạc (1657-1687), các chúa vào triều yết không quỳ lạy, không xưng tên và tự tiện ngồi ngay bên trái ngự toạ, ngang hàng với vua!...

Trong mô hình lưỡng đầu thế này, sở dĩ thực quyền nguyên thủ nghiêng hẳn về phía chúa Trịnh là do họ Trịnh tiếp nối sự nguyệp Nguyễn Kim nắm trọn quyền lực trong tay, tự mình quyết định và hành động; con nhà Lê thì đã quá suy yếu, phải chịu thế phụ thuộc và thực tế được họ Trịnh dựng lại chỉ để làm bù nhìn mà thôi. Tuy nhiên, nguyên nhân thiết lập và duy trì mô hình này lại khá tế nhị.

Thực ra, chúa Trịnh cũng đã có nhiều lần có ý định cướp ngôi vua nhưng không dám thực hiện. Năm 1556, vua Lê Trung Tôn băng hà mà không có con nối dõi, Trịnh Kiểm mật bàn với những người thân tín việc tự xưng làm vua. Trong lúc lưỡng lữ, Trịnh Kiểm đã sau thuộc hạ tới hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm - một người rất am hiểu thời cuộc và có những nhận định, tiên đoán sáng suốt. Tương truyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm gán tiếp trả lời bằng cách bảo người nhà :"Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ!" và răn chú tiểu dọn chùa :"Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản!". Ý Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn khuyên Trịnh Kiểm nên tìm con cháu nhà Lê dựng lên làm vua để có danh nghĩa thu phục lòng người...

Các chúa Trịnh kế tiếp cũng không dám phế bỏ nhà Lê, bởi theo kinh nghiệm lịch sử và trong hoàn cảnh thực tế đương thời, hành động đoạt ngôi vua sẽ không có lợi cho vai trò thống trị của họ Trịnh. Họ Trịnh vốn chưa có cơ sở xã hội vững chắc, không được toàn dân ủng hộ, lại đang phải đối đầu với kẻ thù hùng mạnh ở cả phía Băc (nhà Mạc) lẫn phía Nam (họ Nguyễn ).

Trong điều kiện ấy, họ Trịnh phải chấp nhận duy trì ngôi vua Lê, mang danh nghĩa nhà Lê - một vương triều thiết lập trên nền tảng chiến thắng oanh liệt chống ngoại xâm và ít nhiều còn uy tín đối với nhân dân - để trấn áp các lực lượng đối lập, chiêu dụ dân chúng, (thể hiện rất rõ với việc chúa Trịnh thường cho vua Lê cùng đi vận động thần dân hoặc đi đánh chúa Nguyễn ở phía Nam). Nắm giữ thực quyền cao nhất nhưng lị không lên làm vua là giải pháp chính trị tối ưu cho chúa Trịnh. Điều này lý giải tại sao mô hình lưỡng đầu chế "vua Lê chúa Trịnh" kỳ dị bậc nhất trong lịch sử lại tồn tại dai dẳng tới 250 năm - đến tận lúc họ Trịnh bị quân Tây Sơn diệt (tháng 7-1786).

http://www.suutap.com/default.asp?id=1187&muc=3

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code