Monday, September 23, 2013

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TRONG SỬA ĐỔI PHẦN QUY ĐỊNH CHUNG CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005


NGUYỄN HỒNG HẢI – Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế, Bộ Tư pháp
Trong cấu trúc và mục đích kết cấu của Bộ luật dân sự, phần Quy định chung được kết cấu như là phần quy định những nguyên lý cơ bản nhất về quan hệ tư, về luật tư và là điều khoản chung cho toàn bộ các phần trong Bộ luật dân sự và các văn bản luật trong hệ thống luật tư. Qua thực tiễn thi hành, phần Quy định chung của Bộ luật dân sự năm 2005 (từ Điều 1 đến Điều 162) bên cạnh những quy định tốt đã bộc lộ những khiếm khuyết cơ bản trong thể hiện vai trò nêu trên của mình, nhiều quy định không thể hiện đầy đủ những nguyên lý của quan hệ luật tư, chưa thực sự là điều khoản chung, không có tính ổn định và tính khái quát cao… Trước thực trạng như vậy, việc sửa đổi phần Quy định chung cần thiết phải đặt ra và là một nội dung quan trọng trong công tác sửa đổi cơ bản Bộ luật dân sự. Việc sửa đổi phần Quy định chung cần có những nghiên cứu rất cơ bản về lý luận, tổng kết công tác thực tiễn và trong tư duy xây dựng pháp luật. Bài dẫn đề này xin đề cập một số định hướng cơ bản sau:
1. Việc sửa đổi cần được dựa trên những nguyên tắc cơ bản, thống nhất trong tư duy xây dựng pháp luật dân sự nói chung và phần Quy định chung của Bộ luật dân sự nói riêng
- Thứ nhất, những nguyên lý cơ bản nhất của các quan hệ tư là đối tượng điều chỉnh của Bộ luật dân sự phải được ghi nhận, không tái quy định hoặc bổ sung vào trong Bộ luật dân sự những quy định đi ngược với những nguyên lý này;
- Thứ hai, việc xây dựng và hoàn thiện phần Quy định chung nói riêng và Bộ luật dân sự nói chung phải dựa vào luận cứ khoa học trên nền tảng học thuyết pháp lý đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, phù hợp với điều kiện kinh tế – văn hóa – xã hội của Việt Nam. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm trong kết cấu, nội dung của các Bộ luật dân sự cổ, cận đại và hiện hành của Việt Nam (Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936, Bộ Dân luật năm 1972 của chế độ Sài Gòn cũ, Bộ luật dân sự năm 1995, năm 2005 của Nhà nước ta). Đồng thời, học tập, tham khảo kinh nghiệm về kết cấu, nội dung Bộ luật dân sự của các nước trên thế giới có truyền thống về pháp luật dân sự thành văn (Đức, Pháp, Nhật…) và của các nước có điều kiện kinh tế – văn hóa – xã hội tương đồng với Việt Nam (Thái Lan, Cam – Phu – Chia, Philippine…).
- Thứ ba, phần Quy định chung của Bộ luật dân sự phải là phần điều khoản chung cho toàn bộ hệ thống quy phạm thuộc lĩnh vực luật tư. Trong đó, việc quy định các phần còn lại của Bộ luật dân sự và trong các văn bản luật chuyên ngành (Luật Doanh nghiệp, Luật Thương Mại, Luật nhà ở, Luật hôn nhân và gia đình…) không được trái với các quy định trong phần Quy định chung mà chỉ là sự cụ thể hóa các nguyên tắc, các định chế của nó vào trong các chế định, quan hệ cụ thể;
- Thứ tư, đảm bảo tính ổn định và tính khái quát cao trong các quy định của phần Quy định chung, tạo cơ sở pháp lý chung trong xây dựng pháp luật, giải thích pháp luật hoặc là căn cứ áp dụng pháp luật khi các phần còn lại của Bộ luật dân sự hoặc các văn bản luật chuyên ngành thuộc hệ thống luật tư không có quy định hoặc quy định không cụ thể.

Những vấn đề pháp lý thường phụ thuộc vào các quyết định chính trị thì không tái quy định lại hoặc bổ sung vào phần Quy định chung (kể các phần khác của Bộ luật dân sự) mà nên quy định ở các văn bản pháp luật khác để đảm bảo sự ổn định của các quy định trong Bộ luật dân sự, cũng như chính sách nhất quán của Nhà nước đối với các quan hệ tư và trong điều chỉnh quan hệ tư;
- Thứ năm, thừa nhận nguyên tắc công nhận tiền lệ, tập quán là nguồn của luật tư, đảm bảo đủ cơ sở pháp lý để Tòa án công nhận và bảo vệ quyền của chủ thể luật tư, để áp dụng giải quyết một vụ việc dân sự, cũng như trong pháp điển hóa pháp luật về dân sự;
- Thứ sáu, thừa nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để đảm bảo lẽ công bằng trong giải quyết các vụ việc dân sự;
- Thứ bảy, không quy định trùng lắp giữa phần Quy định chung của Bộ luật dân sự với các phần còn lại của Bộ luật dân sự và các văn bản luật chuyên ngành thuộc hệ thống luật tư. Những quy định thuộc điều khoản chung trong lĩnh vực luật tư thì cần cơ cấu thống nhất trong phần Quy định chung của Bộ luật dân sự không quy định lại hoặc bổ sung trong các phần còn lại của Bộ luật dân sự và trong các văn bản luật chuyên ngành;
2. Kết cấu phần Quy định chung
Về cơ bản, kết cấu phần Quy định chung của Bộ luật dân sự năm 2005 tương đối hợp lý, những chế định trong phần này đều mang tính chất là điều khoản chung cho toàn bộ hệ thống quy phạm trong lĩnh vực luật tư (nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật dân sự; những nguyên tắc cơ bản; cá nhân; pháp nhân; giao dịch dân sự; đại diện; thời hạn và thời hiệu). Do vậy, kết cấu của phần Quy định chung của Bộ luật dân sự sửa đổi sẽ dựa trên nền kết cấu của phần Quy định chung Bộ luật hiện hành có xem xét đến hai vấn đề sau:
(1) Về chủ thể, ngoài hai thành tố cơ bản là cá nhân và pháp nhân, nhà làm luật cũng đã đưa hộ gia đình và tổ hợp tác vào phần Quy định chung Bộ luật dân sự năm 2005 với tư cách là chủ thể của luật dân sự. Chưa bàn đến tư cách chủ thể và tính hợp lý khi thừa nhận tư cách chủ thể của hộ gia đình và tổ hợp tác, đứng trên phương diện cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy, chế định về hộ gia đình và tổ hợp tác không thể xác định là điều khoản chung cho toàn bộ hệ thống quy phạm thuộc lĩnh vực luật tư, vì bản thân hộ gia đình và tổ hợp tác tham gia giao lưu dân sự, thương mại chỉ trong một số lĩnh vực đặc thù, trên một phạm vi hạn chế. Do đó, không nên tái kết cấu chương Hộ gia đình và Tổ hợp tác vào trong phần Quy định chung Bộ luật dân sự;
(2) Bộ luật dân sự hiện hành không kết cấu chế định tài sản vào phần Quy định chung mà kết cấu vào phần Tài sản và Quyền sở hữu tài sản. Kết cấu như vậy chúng tôi cho rằng không hợp lý. Tài sản không chỉ là đối tượng và khách thể của quyền sở hữu mà còn là đối tượng phổ biến trong hầu hết các quan hệ tư và các giao dịch khác. Trên thực tế, các quy định về tài sản trong phần Tài sản và Quyền sở hữu không chỉ liên quan đến quyền sở hữu mà còn là điều khoản chung của hầu hết các phần còn lại của Bộ luật dân sự và văn bản luật chuyên ngành trong lĩnh vực luật tư. Với vị trí như vậy, việc kết cấu chế định tài sản vào phần Quy định chung thay cho việc kết cấu ở phần Tài sản và Sở hữu của Bộ luật dân sự là một giải pháp cần được lựa chọn trong kết cấu phần Quy định chung nói riêng và kết cấu Bộ luật dân sự sửa đổi nói chung.
Với cách tiếp cận như vậy, dự kiến kết cấu phần Quy định chung của Bộ luật dân sự sửa đổi bao gồm:
1. Hiệu lực của Bộ luật dân sự
2. Những nguyên tắc cơ bản
3. Cá nhân
4. Pháp nhân
5. Tài sản
6. Giao dịch
7. Đại diện
8. Thời hạn và thời hiệu.
3. Một số định hướng về nội dung của phần Quy định chung Bộ luật dân sự sửa đổi[1]
3.1. Về nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật dân sự (Chương 1, Điều 1 – Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005)
Việc sử dụng thuật ngữ nhiệm vụ, phạm vi điều chỉnh và hiệu lực trong cùng một nội dung là không cần thiết, có sự trùng lắp về nội hàm khoa học của thuật ngữ. Bản thân từ hiệu lực đã bao hàm đối tượng, phạm vi điều chỉnh cả về không gian, thời gian và lãnh thổ. Do vậy, Chương 1 Bộ luật dân sự năm 2005 nên được kết cấu lại thành chương Hiệu lực của Bộ luật dân sự.
Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2005 cho thấy sự “lúng túng” của kỹ thuật lập pháp dựa trên phương pháp liệt kê khi quy định “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”. Quy định như vậy chưa thực sự khái quát hóa, trừu tượng hóa được về nguyên lý, đặc trưng của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng, phạm vi điều chỉnh của luật dân sự là các quan hệ tư trong đó chủ thể bình đẳng, tự do ý chí khi xác lập, thực hiện và chấm dứt quan hệ trên cơ sở tôn trọng lợi ích công cộng và trật tự xã hội [2]. Mặt khác, sự phân loại các quan hệ thuộc đối tượng, phạm vi điều chỉnh của luật dân sự thành quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình… chỉ mang tính chất tương đối, trong nhiều trường hợp khó có thể phân biệt được cụ thể một quan hệ tư thuộc nhóm quan hệ nào[3]. Khắc phục vướng mắc này, Điều 1 nên được thiết kế lại với nội dung “Bộ luật này được ban hành nhằm tôn trọng các quyền về tài sản được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; điều chỉnh các quan hệ được xác lập, thực hiện và chấm dứt dựa trên sự bình đẳng, tự do ý chí giữa các tư nhân[4]; công nhận và bảo vệ quyền của các tư nhân trên cơ sở tôn trọng lợi ích công cộng và trật tự xã hội”.
Cũng về hiệu lực, Bộ luật dân sự năm 2005 chưa có một quy định cụ thể làm rõ mối quan hệ về hiệu lực giữa Bộ luật dân sự với các văn bản luật chuyên ngành (Luật thương mại, Luật sở hữu trí tuệ, Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật kinh doanh bất động sản…). Các quan hệ tư thuộc đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự rất rộng và đa dạng, do đó, bên cạnh các quy định của Bộ luật dân sự, việc ban các văn bản pháp luật chuyên ngành là tất yếu. Tuy nhiên, các văn bản luật chuyên ngành có nội dung không được trái với những nguyên tắc cơ bản và những nguyên lý cơ bản của quan hệ tư được quy định trong Bộ luật dân sự. Trong trường hợp, Bộ luật dân sự và văn bản luật chuyên ngành cùng điều chỉnh một quan hệ tư, nguyên tắc ưu tiên luật chuyên ngành được công nhận nếu quy định của luật chuyên ngành không trái với những nguyên tắc cơ bản và những nguyên lý cơ bản của quan hệ tư được quy định trong Bộ luật dân sự. Trong trường hợp một quan hệ chuyên ngành không được văn bản luật chuyên ngành quy định hoặc quy định không cụ thể thì quy định của Bộ luật dân sự là căn cứ để giải thích luật chuyên ngành hoặc được áp dụng để công nhận, bảo vệ quyền của chủ thể luật tư. Thực tế pháp lý của Việt Nam cho thấy, việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực tư chưa đáp ứng được yêu cầu trên, khi chúng được ban hành không dựa trên nguyên tắc nhất quán, có tính hệ thống trong lĩnh vực luật tư đã gây rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật. Theo chúng tôi, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của nhà làm luật Cam Pu Chia trong việc đưa ra giải pháp cho vấn đề này, Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2007 của họ quy định “Luật này đưa ra những quy định cơ bản liên quan đến mối quan hệ pháp luật dân sự. Trong trường hợp không có quy định khác trong các bộ luật chuyên ngành về quan hệ tài sản và quan hệ gia đình thì những quy định của bộ luật này hoàn toàn có thể áp dụng được”.
Về nguồn của luật dân sự, nhà làm luật Việt Nam đã thừa nhận tập quán là nguồn của luật dân sự trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận (Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005). Tuy nhiên, theo chúng tôi cần bổ sung vào Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2005 về áp dụng tập quán của một hiệp hội và tập quán quốc tế trong điều chỉnh các quan hệ tư. Đây cũng là yêu cầu khách quan đặt ra trong thực tiễn giao lưu dân sự và trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần thiết phải có nghiên cứu cơ bản về việc thừa nhận án lệ là nguồn của luật tư. Trên thế giới, không có Bộ luật dân sự nào có thể quy định hết được các quan hệ, nhóm quan hệ trong lĩnh vực luật tư. Thực tế đó sẽ dẫn tới có quan hệ, nhóm quan hệ, luật không quy định hoặc có quy định nhưng không rõ ràng và khi có yêu cầu của chủ thể luật tư, Tòa án sẽ không có đủ căn cứ pháp lý để xác định và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể. Giải pháp được nhiều nước lựa chọn để giải quyết vấn đề này là trao thẩm quyền cho Tòa án được sử dụng án lệ để giải thích luật và áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ việc dân sự[5].
3.2. Về nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự (Chương 2, Điều 4 – Điều 13 Bộ luật dân sự năm 2005)
Một yêu cầu trong xây dựng các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự (thực chất là các nguyên tắc cơ bản của hệ thống luật tư) được áp dụng trong hầu hết các Bộ luật dân sự trên thế giới là chỉ quy định các nguyên tắc có nội dung khái quát hóa, trừu tượng cao, phản ánh đặc trưng, nguyên lý của quan hệ tư và luật tư. Nhiều nguyên tắc được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 từ Điều 4 đến Điều 13 không đảm bảo được yêu cầu nêu trên: Một số nguyên tắc được thiết kế “ôm đồm” vượt quá yêu cầu của một nguyên tắc khi nội dung chứa đựng quy định của một chế định cụ thể (nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được quy định tại Điều 4 là một ví dụ); Một số nguyên tắc được quy định có nội dung trùng lắp nhau, không phản ánh được tính độc lập của một nguyên tắc cơ bản (ví dụ, tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản tại Điều 8, nhưng nội dung của nó cũng đã được quy định tại Điều 1 nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được công nhận khi không trái đạo đức xã hội); Một số nguyên tắc được quy định nhưng không mang tính chất đặc trưng của quan hệ tư, luật tư mà là những nguyên tắc đương nhiên của Nhà nước pháp quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp hoặc nó được áp dụng cho tất cả các quan hệ không chỉ có quan hệ tư, như các nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9), nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10), nguyên tắc tuân thủ pháp luật (Điều 11); có những nội dung không mang tính nguyên tắc, nhưng lại được quy định trong phần này, đó là quy định về căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự tại Điều 13.
3.3. Về thời hiệu (Điều 154 – Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 159, Điều 168 và Điểm c Khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2004)[6]
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, thời hiệu có 3 loại thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự (bao gồm thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự) – gọi chung là thời hiệu khởi kiện. Trong đó, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện (Khoản 3 Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 159 BLTTDS năm 2004). Cụ thể hóa quy định này, điểm h khoản 1 Điều 192 BLTTDS tại mục 31 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tòa án có quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nếu thấy đã hết thời hiệu khởi kiện.
Việc quan niệm thời hiệu khởi kiện như vậy đã bộc lộ những vướng mắc về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cơ bản để sửa đổi, hoàn thiện:
- Thứ nhất, việc quy định thời hiệu yêu cầu còn mang nặng mục đích tạo căn cứ pháp lý cho Tòa án từ chối giải quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu của chủ thể dân sự, biến thời hiệu yêu cầu thành thành thời hiệu thụ lý trong thực tiễn tố tụng ở Việt Nam. Đây là một mâu thuẫn lớn đối với thể chế pháp lý cho nền kinh tế thị trường, xã hội dân sự và thông lệ quốc tế – Pháp luật có trách nhiệm đảm bảo được lẽ công bằng trong ứng xử và trong bảo vệ quyền của chủ thể luật tư khi quyền của họ cần được bảo vệ. Tòa án không lấy lý do thời hiệu đã hết để từ chối thụ lý đơn khi có yêu cầu. Tòa án chỉ có quyền căn cứ vào quy định về thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ để công nhận hay bác yêu cầu của chủ thể.
- Thứ hai, pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc thừa nhận quyền yêu cầu của chủ thể dân sự trong thời hạn luật định mà chưa có quan điểm rõ ràng hậu quả về nội dung quan hệ dân sự khi thời hiệu khởi kiện đã hết. Ở Việt Nam, hết thời hiệu yêu cầu không đồng nghĩa chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, bên có nghĩa vụ không được miễn trừ nghĩa vụ, trong khi bên có quyền không còn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận, bảo vệ quyền dân sự. Đây có thể là một trong những nguyên nhân gia tăng sự phức tạp trong thực tiễn giao lưu dân sự (đặc biệt trong các tranh chấp liên quan đến sở hữu, hợp đồng và thừa kế);
- Thứ ba, pháp luật đã công nhận quyền của chủ thể dân sự trong việc yêu cầu Tòa án công nhận, bảo vệ quyền dân sự, nhưng chưa có quy định hợp lý về xác định thời hiệu, thường ấn định một thời điểm xác định mà không linh hoạt hóa cho phù hợp với các quan hệ dân sự và chủ thể có tính đặc thù thống nhất. Quy định như vậy, có thể tạo ra tình trạng không công bằng trong công nhận, bảo vệ quyền dân sự của chủ thể hoặc áp dụng pháp luật không thống nhất. Ví dụ, khoản 1 Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thời hiệu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu được tính từ thời điểm giao dịch được xác lập mà không phụ thuộc chủ thể dân sự biết hay buộc phải biết quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc hành vi vi phạm đã và đang còn tiếp diễn hay không.
3.4. Về chủ thể
Chủ thể được quy định trong phần quy định chung của Bộ luật dân sự năm 2005, chương 3 Cá nhân (Điều 14 – Điều 83), chương IV Pháp nhân (Điều 84 – Điều 105), chương V Hộ gia đình, tổ hợp tác (Điều 106 – Điều 120). Xét về tổng thể, nhiều quy định trong Bộ luật đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn về xác định tư cách chủ thể. Tuy nhiên, chủ thể luật tư rất rộng, nó bao trùm lên hầu hết các chủ thể trong xã hội. Các chủ thể trong xã hội cũng rất đa dạng về loại và tư cách chủ thể, nhưng xét cho cùng chỉ ở hai tư cách: cá nhân và pháp nhân. Quy định về chủ thể trong Bộ luật dân sự phải mang tính khái quát cao để có thể điều chỉnh được tất cả các chủ thể luật tư và Bộ luật dân sự hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu này ở hai khía cạnh: không bao quát hết các chủ thể luật tư và gặp rất nhiều vướng mắc về xác định tư cách chủ thể trong thực tiễn áp dụng. Vì vậy, việc sửa đổi Bộ luật dân sự về chủ thể quan hệ pháp luật dân sự nên quy định theo hai thành tố cơ bản: cá nhân (thể nhân) và pháp nhân. Đây cũng là giải pháp phổ biến theo truyền thống pháp luật dân sự trên thế giới và yêu cầu khách quan của thực tiễn giao lưu dân sự.
* Đối với cá nhân:
Các quy định về cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2005 là rất tốt, đã tạo nên những điều khoản chung hiệu quả cho việc quy định các phần còn lại của Bộ luật dân sự và các văn bản luật chuyên ngành trong lĩnh vực luật tư. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2005 có một mục riêng về quyền nhân thân của cá nhân (từ Điều 24 đến Điều 51) theo hướng quy định cụ thể, liệt kê các quyền nhân thân của cá nhân. Việc quy định như vậy tạo thuận lợi cho Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác áp dụng pháp luật, nhưng có thể là sự hạn chế quyền nhân thân của cá nhân. Do vậy, cần bổ sung một nguyên tắc chung, ngoài những quyền nhân thân đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, những gì thuộc về phẩm giá của con người thì cũng được pháp luật dân sự công nhận và bảo vệ.
Đối với những quyền nhân thân mà đã được ghi nhận trong Hiến pháp với tư cách quyền công dân, việc quy định lại các quyền này trong Bộ luật dân sự mà không làm rõ tính chất “tư” của nó là không cần thiết, như các quyền đối với quốc tịch (Điều 45), quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo (Điều 47), quyền lao động (Điều 49), quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 51)…
Ngoài ra, về vấn đề bảo vệ quyền nhân thân, Điều 25 quy định quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, đồng thời có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra. Quy định như vậy là không hợp lý, không thể đồng nhất người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của người khác và gây thiệt hại thì đương nhiên phải chấm dứt hành vi xâm phạm. Pháp luật cần phải phân định rõ trường hợp nào người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân phải bồi thường thiệt hại đồng thời phải chấm dứt hành vi, trường hợp nào họ phải bồi thường thiệt hại nhưng không phải chấm dứt hành vi của mình (theo kinh nghiệm pháp luật Nhật Bản một hành vi xâm phạm quyền nhân thân của một chủ thể nhưng lại đem lợi ích cho cộng đồng thì chủ thể thực hiện hành vi chỉ thực hiện việc bồi thường mà không phải chấm dứt hành vi của mình, mặc dù người có quyền nhân thân bị xâm phạm có yêu cầu).
* Đối với pháp nhân:
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định pháp nhân là chủ thể luật tư (Điều 84 – Điều 105), nhưng một tổ chức chỉ là pháp nhân khi đảm bảo các điều kiện công nhận pháp nhân được quy định trong Bộ luật dân sự (Điều 84). Với quy định như vậy sẽ có tổ chức không là pháp nhân vì không đảm bảo điều kiện công nhận pháp nhân và những tổ chức này chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật. Việc quy định điều kiện công nhận pháp nhân cũng không hợp lý khi quy định tổ chức là pháp nhân phải được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập, ba điều kiện này không có ý nghĩa về pháp lý vì nó đương nhiên đối với mọi tổ chức không phụ thuộc là pháp nhân hay không là pháp nhân.
Có 3 điểm khác biệt cơ bản giữa tổ chức là pháp nhân và tổ chức không là pháp nhân: (1) Tổ chức đó đăng ký tư cách pháp nhân hay không?; (2) tài sản của tổ chức có độc lập với tài sản của thành viên của tổ chức hay không? (3) tổ chức chịu trách nhiệm dân sự trong phạm vi tài sản của tổ chức (trách nhiệm hữu hạn) hay bằng cả tài sản của tổ chức và tài sản của thành viên (trách nhiệm vô hạn). Một tổ chức là pháp nhân khi nó có đăng ký tư cách pháp nhân, có tài sản độc lập với tài sản của thành viên tổ chức và chịu trách nhiệm hữu hạn trong thực hiện nghĩa vụ.
Để giải quyết những mâu thuẫn trên, theo quan điểm của chúng tôi, chương IV Pháp nhân của Bộ luật dân sự năm 2005 cần quy định nguyên tắc “mọi tổ chức tự do về tư cách pháp nhân nếu có đăng ký”, đối với các tổ chức không có đăng ký là pháp nhân, nhà làm luật cũng phải dự liệu giải pháp pháp lý cho các tổ chức này. Ngoài ra, thời điểm thành lập pháp nhân cũng cần được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự. Quy định các loại pháp nhân (từ Điều 100 đến Điều 105) là không cần thiết vì theo cách phân loại này không cho thấy sự khác biệt cơ bản về quyền đối với tài sản và chịu trách nhiệm dân sự (trừ pháp nhân là cơ quan Nhà nước do những đặc thù riêng về tài sản, nhân danh và chế độ chịu trách nhiệm có thể có quy định riêng).
Ngoài hai chủ thể là cá nhân và pháp nhân nêu trên, Bộ luật dân sự năm 2005 còn quy định hộ gia đình và tổ hợp tác như là chủ thể của luật dân sự. Quy định như vậy của Bộ luật dân sự năm 2005 đã và đang làm phát sinh nhiều vướng mắc cả trong thực tiễn và lý luận mà chưa có giải pháp giải quyết triệt để (tác giả sẽ đề cập đến vấn đề này trong một bài khác).

[1] Trong bài này chúng tôi không đưa ra những định hướng sửa đổi, bổ sung phần giao dịch, đại diện và một số nội dung khác trong phần quy định chung
[2] Đọc thêm, Morishima Aikyo, “Các nội dung cần nghiên cứu, chuẩn bị cho việc sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam”, Hội thảo “Những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật dân sự năm 2005”, Bộ Tư pháp và Jica phối hợp tổ chức, 25-27/2010, Đồ Sơn, Hải Phòng.
[3] Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam phân loại thẩm quyền cũng theo cách phân loại được quy định tại Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2005 phân chia hệ thống tòa dân sự thành Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa Lao động. Thực tiễn cho thấy thực tế nhiều trường hợp khó có thể phân định một vụ án là vụ án dân sự hay vụ án kinh tế để xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc thuộc về Tòa án dân sự hay Tòa kinh tế.
[4] Thuật ngữ “tư nhân” có thể được thay thế bằng thuật ngữ “cá nhân” dùng để ám chỉ cá nhân, pháp nhân tham gia các quan hệ dân sự không dựa trên quyền lực nhà nước, pháp nhân công khi tham gia giao dịch cũng được xác định là “tư nhân” hoặc “cá nhân” không mang tư cách là chủ thể của quan hệ công.
[5] Đọc thêm, Nguyễn Hồng Hải, “Một số vấn đề cần trao đổi thêm về sửa đổi cơ bản Bộ luật dân sự năm 2005”, Tọa đàm ngày 27/04/2011, Bộ Tư pháp và Jica phối hợp tổ chức tại Hà Nội.
[6] Đọc thêm, Nguyễn Hồng Hải, “Một số vấn đề cần trao đổi về thời hiệu yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự”, chuyên đề Hội thảo về “Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự”, Ủy ban Tư pháp Quốc hội. TP.HCM, ngày 27 – 28/12/2010.
SOURCE: CHUYÊN ĐỀ TỌA ĐÀM “một số định hướng sửa đổi cơ bản Bộ luật dân sự năm 2005”, BỘ TƯ PHÁP VÀ JICA TỔ CHỨC, HÀ NỘI, NGÀY 02/03/2011 (Có bổ sung sau kết quả tọa đàm ngày 27/4/2011 cùng một nội dung và đơn vị tổ chức Tọa đàm ngày 02/03/2011)

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code