Tuesday, September 17, 2013

Nhà nước phong kiến Trung Quốc - ThS Lê Thị Thanh Nhàn

NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐÔNG
---o0o---

I. NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ SUY VONG

a. Giai đoạn xác lập nhà nước phong kiến Trung Quốc

v Quá trình hình thành quan hệ sản xuất phong kiến
- Vào thời kỳ Đông Chu (thế kỷ thứ 8 – 3 TCN), xã hội phong kiến Trung Quốc có nhiều biến đổi quan trọng:

· Việc sử dụng công cụ lao động bằng sắt làm cho sức sản xuất phát triển nhanh chóng (Trong nông nghiệp, diện tích đất trồng trọt được mở rộng, nhiều kỹ thuật canh tác được áp dụng làm cho năng suất nông nghiệp tăng lên; Thủ công nghiệp có nhiều tiến bộ, đó là việc cải tiến kỹ thuật và việc tăng số lượng các ngành nghề; Thương nghiệp cũng rất nhộn nhịp.)
· Bên cạnh đó, chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước đang dần tan rã,hình thành chế độ tư hữu về ruộng đất, lý do là:
- Chế độ phân phong ruộng đất bị phá vỡ, chế độ tỉnh điền cũng tan rã.
Khi chính quyền nhà Chu trở nên suy yếu, các nước chư hầu được nhà Chu phân phong ruộng đất trước nay để làm phên dậu bảo vệ mình, thì nay, lợi dụng tình hình này để không phục tùng nhà Chu nữa. Các nước tranh nhau quyền lực, đất đai và tiêu diệt lẫn nhau. Do vậy, trong suốt thời kỳ Đông Chu, ở Trung Quốc đã diễn ra cuộc nội chiến kéo dài triền miên. Để có đủ tiềm lực theo đuổi cuộc chiến tranh, các nước lớn đều lần lượt thi hành những cải cách về chính trị và kinh tế. Một trong những nội dung cải cách quan trọng là thừa nhận sự tư hữu ruộng đất và quyền tự do bán đất.

- Việc mua bán ruộng đất trở nên phổ biến, nhiều ruộng đất của nhà vua trở thành ruộng tư của quý tộc.
- Quý tộc sử dụng sức lao động của nô lệ để khai khẩn đất hoang và biến thành ruộng đất tư của mình.

- Quan hệ sản xuất phong kiến hình thành:

· Do chế độ tỉnh điền tan rã, và với diện tích ruộng đất rộng lớn như thế, quan lại, thương nhân, quý tộc tiến hành phát canh thu tô. Nhiều nông dân không có ruộng đất và nô lệ trở thành tá điền, cày cấy ruộng của chủ đất. Một số khác, do ít ruộng cũng phải lĩnh canh thêm ruộng để cày cấy.
· Họ phải nộp địa tô (có thể là tô tiền hay tô hiện vật) cho chủ đất, ngoài ra họ còn phải nộp các khoản sưu thuế khác, phải đi làm công không cho nhà nước trong một thời gian nhất định trong năm, như đắp đê, xây dựng các công trình… (tô lao dịch).

Như vậy, trong xã hội dần dần hình thành 2 tầng lớp mới: tầng lớp địa chủ và tầng lớp nông dân tá điền. Đồng thời, xuất hiện một phương thức bóc lột mới- mà theo cách gọi của Mac, là “cưỡng bức siêu kinh tế” – nghĩa là, chỉ cần có ruộng đất, không cần vốn đầu tư trang thiết bị, chủ đất vẫn có thể bóc lột được địa tô và nhiều khoản sưu thuế khác đối với nông dân.

v Quá trình hình thành nhà nước phong kiến Trung Quốc thống nhất
- Trải qua cuộc chiến lâu dài, đến nữa sau thế kỷ thứ 5 TCN, ở Trung Quốc còn lại 7 nước lớn, đó là: Tề, Yên, Triệu, Nguỵ, Hàn, Sở, Tần và một số nước nhỏ khác.
- Nhờ cải cách kịp thời, nước Tần trở nên hùng mạnh và tiến hành thống nhất Trung Quốc, thành lập nhà nước phong kiến đầu tiên.
Để có đủ tiềm lực theo đuổi cuộc chiến tranh, các nước lớn đều lần lượt thi hành những cải cách về chính trị và kinh tế. Tuy nội dung và quá trình thực hiện những cải cách của các nước này có khác nhau, song chúng đều đi theo 1 phương hướng chung. Chẳng hạn như ở nước Tần, trong vòng 9 năm, kể từ năm 539 đến 530, vua Tần Hiếu Công đã 2 lần hạ lệnh cải cách theo đường lối của Thương Ưởng, mà nội dung chủ yếu của cải cách này là:
· Xoá bỏ những tàn tích của chế độ thị tộc và đặc quyền của quý tộc chủ nô,
· Thừa nhận chế độ tư hữu ruộng đất và quyền tự do mua bán đất,
· Ưu ái giai cấp địa chủ mới và tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phong kiến phát triển,
· Tăng cường trật tự trị an, khuyến khích lập quân công( manh nha xuất hiện phương thức tiến cử quan lại, bên cạnh hình thức thế tập),
· Tổ chức lại hệ thống hành chính theo chế độ quận, huyện…
Những cải cách như trên rất phù hợp với những biến đổi về kinh tế, chính trị của Trung Quốc nói chung và nước Tần nói riêng, do vậy đã khiến cho nước Tần phát triển nhanh chóng.
Đến thế kỷ thứ 5 TCN, nước Tần trở nên hùng mạnh và tiến hành công cuộc chinh phục trên toàn cõi Trung Quốc. Năm 249 TCN, nước Tần diệt nhà Đông Chu, ngôi Thiên tử bù nhìn tồn tại trong 5 thế kỷ đến đây bị chấm dứt. Từ năm 230 đến năm 221 TCN, nước Tần lần lượt tiêu diệt Hàn (230 TCN), Triệu (228 Tcn), Nguỵ (225 Tcn), Sở (223 Tcn), Yên (222 Tcn), Tề (221 TCN) hoàn thành việc thống nhất Trung Quốc. Vua Tần là Doanh Chính, tự cho mình là “đức độ bao trùm cả Thiên Hoàng, công lao hơn hẳn Ngũ Đế” nên tự xưng mình là Hoàng Đế, lấy hiệu là Thủy Hoàng Đế (nghĩa là Hoàng đế đầu tiên) lịch sử quen gọi là Tần Thủy Hoàng.

- Tần Thủy Hoàng xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến theo chính thể quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.

Để duy trì sự thống nhất đất nước mới vừa đạt được và để củng cố được sự thống trị trên một đế quốc rộng lớn, Tần Thủy Hoàng đã tiếp tục thực hiện những chính sách có từ khi cải cách Thương Ưởng, nhằm xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền chuyên chế.
· Tần Thủy Hoàng thâu tóm toàn bộ quyền lực trong tay, trở thành Hoàng đế có quyền lực tối cao.
· Hàng ngũ quan lại được tuyển chọn và bị chính quyền trung ương chi phối mạnh mẽ.
· Chế độ quận huyện được xác lập.
· Thống nhất pháp luật, tiền tệ, các đơn vị do lường, văn tự và thực hiện một số chính sách tích cực nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển.

Như vậy, trước khi thống nhất Trung Quốc thì chỉ có nước Tần là nước có quan hệ sản xuất phong kiến phát triển nhất, còn các nước khác, tuy đã xuất hiện quan hệ sản xuất phong kiến nhưng tàn dư của chế độ chiếm hữu nô lệ còn nhiều, thế lực quý tộc chủ nô còn mạnh thì sau khi thống nhất, thông qua những chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa của Tần Thủy Hoàng, chế độ phong kiến được thiết lập trong cả nước.
Toàn quốc đặt dưới nền thống trị của một chính quyền trung ương tập quyền chuyên chế. Bộ máy nhà nước vừa là công cụ để giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột quần chúng lao động, vừa là công cụ dùng để duy trì nền thống nhất của đất nước. Bộ máy nhà nước Tần với thể chế quan liêu rất quy mô và đầy đủ, đã trở thành cơ sở cho việc xây dựng bộ máy nhà nước phong kiến Trung Quốc trong suốt hơn hai ngàn năm.

b. Quá trình phát triển và suy vong của nhà nước phong kiến Trung Quốc

- Sự sụp đổ của nhà Tần

· Những chủ trương, chính sách của Tần Thủy Hoàng tuy phù hợp với tiến trình lịch sử lúc bấy giờ nhưng ông tỏ ra rất tàn bạo và xa xỉ làm cho đời sống của nhân dân Trung Quốc vô cùng cực khổ:
Ông dùng phương pháp cai trị: “Mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, không dùng ân đức, nhân nghĩa”. Đồng thời kiên quyết bày trừ Nho giáo. Trước tình hình một số nhà nho thường dùng những câu trong sử sách để chê bai tình hình đương thời, Tần Thủy Hoàng ra lệnh: nhân dân phải nộp tất cả các loại sách thi, thư và các tác phẩm của các tác giả thời Chiến quốc để đốt đi, cấm dẫn sách cổ để bàn luận với nhau, nếu hai người bàn bạc về kinh thi, kinh thư thì chém ngay giữa chợ, lấy đời xưa để chê đời nay thì giết cả họ (sự kiện 460 nhà nho bị chôn sống ở Hàm Dương).
Bắt nhân dân xây dựng nhiều công trình kiến trúc đồ sộ như: Vạn lý trường thành, lăng Ly Sơn, cung A Phòng và hơn 700 cung rãi rác khắp cả nước.
Bắt nhân dân tham gia nhiều cuộc chiến tranh xâm lược

· Do đó, xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra nhằm chống lại ách thống trị của nhà Tần.

Năm 206 TCN, Lưu Bang và Hạng Vũ, hai thủ lĩnh của nhân dân lao động đã lật đổ được nhà Tần.

- Sơ lược lịch sử Trung Quốc từ nhà Hán đến nhà Thanh

Do mâu thuẫn trong việc phân chia quyền lực nên Lưu Bang và Hạng Vũ lại chiến tranh với nhau (chiến tranh Hán – Sở). Năm 202 TCN, Lưu Bang tiêu diệt Hạng Vũ, thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Hán, đóng đô ở Lạc Dương, gọi là nhà Tây Hán.
Năm 8 TCN, Vương Mãng là một ngoại thích đã cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân. Năm 23 nhà Tân bị lật đổ.
Nhà Hán được khôi phục bởi Lưu Tú Hán Quang Vũ. Hán Quang Vũ dời đô về Trường An, phía đông của Lạc Dương nên gọi là Nhà Đông Hán. Năm 184, nhà Đông Hán suy sụp, thối nát, cướp ruộng đất của nông dân, bóc lột nhân dân tàn tệ.
Do đó, năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng bùng nổ, các thế lực phong kiến liên minh với nhau để đàn áp khởi nghĩa nhưng không thành công. Nhà Đông Hán suy vong, xuất hiện cục diện Tam Quốc
Trong thời kỳ Tam Quốc, Trung Quốc bị phân liệt thành 3 nước: nước Ngụy của Tào Tháo, nước Thục của Lưu Bị, nước Ngô của Tôn Quyền. Ba nước chiến tranh với nhau khốc liệt suốt hơn nữa thế kỷ. Năm 280, Tư Mã Viêm tiêu diệt được Ngô và Thục, thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tấn.
Nhà Tấn diệt vong, cục diện Trung Quốc lại rơi vào cục diện Nam Bắc triều.
Năm 581, Dương Kiên thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tuỳ, lên ngôi và xưng là Tuỳ Văn Đế.
Năm 618, nhà Tuỳ mất, Lý Uyên và con là Lý Thế Dân lập ra nhà Đường.
Trong thời kỳ nhà Đường, chế độ phong kiến Trung Quốc phát triển cao nhất, hưng thịnh nhất. Năm 907, nhà Đường diệt vong. Trung Quốc bước vào cục diện Ngũ đại Thập quốc (hay còn gọi là 5 đời, 10 nước)
Năm 907, Triệu Khuông Dật thống nhất Trung Quốc lập ra nhà Tống.
Năm 1279, nhà Nam Tống bị quân Nguyên - Mông do Hốt Tất Liệt cầm đầu tiêu diệt. Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên. Năm 1368, nhà Nguyên bị cuộc khởi nghĩa của nông dân do Chu Nguyên Chương lãnh đạo lật đổ. Chu Nguyên Chương lập ra triều Minh.
Năm 1644, nhà Minh bị người Mãn Châu ở Đông Bắc Trung Quốc tiến xuống lật đổ và lập ra nhà Thanh.

- Quá trình chấm dứt thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc.

Năm 1840, thực dân Anh cầm đầu các nước tư bản xâm lược Trung Quốc. Trung Quốc bị biến thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến.
Năm 1857, 1858, khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên quốc do Hồng Tú Toàn lãnh đạo đã làm chủ được một phần lớn lãnh thổ Trung Quốc nhưng cuối cùng, khởi nghĩa thất bại. Một trong những nguyên nhân thất bại là khi vào Nam Kinh, với cuộc sống vương giả, các lãnh tụ của Thái Bình Thiên quốc đã thoái hoá, giết hại lẫn nhau, tranh giành quyền lực.
Trong khi đó, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản đã xuất hiện. Đến năm 1911, cuộc cách mạng tư sản ở Trung Quốc nổ ra đưới sự lãnh đạo của Tôn Trung Sơn, triều Thanh bị lật đổ, chấm dứt thời kỳ phong kiến Trung Quốc kéo dài hơn 2000 năm.

2. CHẾ ĐỘ XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ PHONG KIẾN Ở TRUNG QUỐC

a. Chế độ ruộng đất

Trong thời phong kiến, ở Trung Quốc có hai hình thái sở hữu ruộng đất: ruộng đất của nhà nước và ruộng đất của tư nhân.

v Ruộng của nhà nước

- Ruộng đất của nhà nước có thể được gọi là công điền, vương điền, quan điền… nhà nước thường đem ruộng này ban cấp cho quý tộc quan lại làm bổng lộc và tổ chức thành đồn điền, điền trang để sản xuất; hoặc chia cho nông dân dưới hình thức QUÂN ĐIỀN để thu tô thuế.

Năm 485, vua Hiếu Văn Đế của triều Bắc Nguỵ ban hành chế độ quân điền nhằm phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, sau đó, các triều đại Bắc Tề, Tùy, Đường cũng áp dụng chế độ quân điền này.

- Nội dung chủ yếu của chế độ quân điền trong thời kỳ phong kiến Trung Quốc:

Tuỳ theo chức vụ cao thấp, quan lại được ban cấp ruộng đất làm bổng lộc. Đối với ruộng ban thưởng cho quý tộc quan lại, họ được quyền tự do mua bán.
Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý chia cho nông dân cày cấy. Tuỳ theo loại ruộng, là ruộng trồng lúa hay trồng dâu, tuỳ theo người nhận ruộng là đàn ông hay đàn bà, mà nhà nước sẽ cấp ruộng đất với diện tích khác nhau.
Trong thời kỳ nhà Đường, ruộng trồng lúa gọi là ruộng khẩu phần, ruộng trồng dâu gọi là ruộng vĩnh nghiệp.
Ruộng trồng lúa được giao đến năm 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước, còn ruộng trồng dâu được truyền lại cho con cháu. Nông dân không được quyền chuyển nhượng ruộng đất do nhà nước cấp. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt như: dư hoặc thiếu ruộng, gia đình có việc tang ma, quá túng thiếu, chuyển nơi ở thì được quyền bán ruộng trồng lúa hoặc trồng dâu tuỳ theo từng trường hợp cụ thể

Trên cơ sở quân điền, nhà nước bắt nông dân phải chịu nghĩa vụ ngang nhau về thuế khoá và lao dịch. Đến đời Tuỳ, Đường nghĩa vụ đó được quy định thành chế độ “tô, dung, điệu”.
o Tô: là thuế đánh vào ruộng lúa, được nộp bằng thóc.
o Dung: là thuế hiện vật, thay cho nghĩa vụ lao dịch, cũng nộp bằng lúa.
o Điệu: thuế đánh vào đất trồng dâu, nộp bằng lụa.

- Khi thực hiện chế độ quân điền, toàn bộ ruộng đất bị bỏ hoang thời chiến tranh được canh tác trở lại, nông nghiệp phát triển, còn nông dân thì thoát khỏi sự lệ thuộc vào địa chủ. Do đó, nhà nước và nông dân đều có lợi.

- Tuy nhiên chế độ quân điền không tồn tại được lâu do sự áp bức bóc lột khốc liệt của nhà nước, thay vào đó là chế độ thuế 2 kỳ.
Đến giữa đời Đường, do sự chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ, và do nông dân không chịu nổi nghĩa vụ thuế khóa nên phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực, gây nên những xáo trộn lớn về nhân khẩu. Chế độ quân điền bị phá hoại dần dần. Trước tình cảnh đó, nhà Đường phải đặt ra chế độ thuế khoá mới, gọi là phép thuế 2 kỳ: nhà nước căn cứ vào số ruộng đất và tài sản có thực để đánh thuế, thu 2 lần, tương ứng với 2 mùa thu hoạch trong năm.
Từ đó, ruộng đất của nhà nước ngày càng bị thu hẹp lại, và chỉ sử dụng để ban cấp cho quan lại hoặc lập đồn điền, điền trang để sản xuất.

v Ruộng đất tư nhân

- Trong thời kỳ phong kiến, ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ ngày càng nhiều. Trên cơ sở ấy, tổ chức điền trang xuất hiện. Điền trang là những đơn vị kinh tế tự sản tự tiêu.
Người lao động trong điền trang gọi là điền khách, bộ khúc, nô tỳ.
o Điền khách là những nông dân lĩnh canh ruộng đất của điền trang, có nghĩa vụ nộp địa tô cho chủ, chủ yếu là tô sản phẩm.
o Bộ khúc là những điền khách được luyện tập quân sự, bình thường thì sản xuất nông nghiệp, khi có chiến tranh thì trở thành lực lượng tự vệ của điền trang.
Tuy tên gọi khác nhau nhưng điền khách và bộ khúc đều là nông dân lệ thuộc vào chủ điền trang. Khác với nông nô ở phương tây, họ không bị ràng buộc đời đời vào ruộng đất, họ có thể tự ý rời bỏ điền trang bất cứ lúc nào.

- Đến đời Đường, Tống cùng với sự phát triển của ruộng đất tư hữu, số điền trang trong nước nhiều hơn. Nhưng lúc này, do sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tính chất tự nhiên của kinh tế điền trang có giảm bớt. Những thay đổi này là biểu hiiện của sự tan rã dần chế độ điền trang ở trung quốc.

- Bên cạnh đó, còn có chế độ ruộng đất của nông dân tự canh. Bộ phận ruộng đất này rất bấp bênh, nhưng trước sau vẫn tồn tại trong xã hội phong kiến.

b. Quan hệ giai cấp

Cơ cấu giai cấp trong xã hội phong kiến Trung Quốc tương đối phức tạp, trong đó, bao gồm các giai cấp và tầng lớp sau đây:

v Giai cấp địa chủ

Chia thành 2 tầng lớp chủ yếu là: địa chủ quan lại và địa chủ bình dân.

· Địa chủ quan lại

- Trong tầng lớp địa chủ quan lại, có một bộ phận giàu sang, thế lực nhất là Địa chủ quý tộc phong kiến, gồm: vương hầu, tôn thất, công thần… đến đời Tấn, địa chủ quý tộc trở thành một tầng lớp đặc biệt, gọi là Địa chủ môn phiệt, còn gọi là Địa chủ sĩ tộc hay Địa chủ thế tộc. Về chính trị, địa chủ thế tộc đời đời giữ những chức vụ lớn và được quan niệm là thanh cao trong triều đình. Tầng lớp này tồn tại trong suốt chiều dài của chế độ phong kiến.
- Địa chủ quan lại cấp dưới được gọi là Địa chủ hàn môn. Do đó, lúc bay giờ có câu truyền miệng rằng: “Phẩm cao không có hàn môn, phẩm thấp không có thế tộc”.

· Địa chủ bình dân

Là tầng lớp không giữ chức vụ gì trong bộ máy nhà nước. Tuy vậy, bằng biện pháp chiếm đoạt ruộng đất, bóc lột nhân dân, buôn bán… họ trở nên rất giàu có, do đó, cũng có thế lực lớn về chính trị.
Khi chính quyền trung ương suy yếu, Một số nhà địa chủ bình dân giàu có bắt các điền khách luyện tập quân sự, trước là để bảo vệ điền trang, sau có thể tham gia vào cuộc đấu tranh trong triều đình. Nếu thành công, họ trở thành địa chủ quan lại.
· Ngoài ra, từ thời Nam Bắc Triều về sau, Phật giáo và Đạo giáo nhanh chóng phát triển. Do đó, bên cạnh địa chủ thế tộc còn có địa chủ nhà chùa. Tầng lớp này có nhiều ruộng đất, nô dịch nhiều nông dân nhưng không giữ vai trò quan trọng trong xã hội.

v Giai cấp nông dân

Trong xã hội phong kiến trung quốc, giai cấp nông dân phân hoá thành 2 loại: nông dân tự canh và nông dân lĩnh canh.

· Nông dân tự canh

Là những người cày cấy ruộng đất của mình hoặc của nhà nước cấp cho theo chế độ quân điền.
Họ có nghĩa vụ nộp thuế (thường là bằng 1/10 thu hoạch) và phải đi làm lao dịch cho nhà nước.
Họ là dân tự do, nếu có điều kiện học hành và thi cử đỗ đạt thì có thể trở thành quan lại.
Tuy vậy, do sự áp bức bóc lột của nhà nước phong kiến và do trình độ của sức sản xuất còn thấp, thiên tai lại thường xuyên xẩy ra nên đời sống của họ cũng rất vất vả. Nếu bị phá sản, họ sẽ trở thành nông dân lĩnh canh, nô tỳ, hoặc phải đi tha phương cầu thực.

· Nông dân lĩnh canh

Là những người không hoặc có ít ruộng đất, nên phải trở thành tá điền cho địa chủ.
Họ có nghĩa vụ phải nộp tô cho địa chủ, thường bằng 5/10 thu hoạch.
Thân phận của nông dân lĩnh canh tuỳ theo từng thời kỳ mà có ít nhiều khác nhau:
o Thời Tây Hán, họ vẫn là thần dân của nhà nước.
o Nhưng từ đời Đông Hán trở về sau họ được coi là điền khách, bộ khúc trong các điền trang, chỉ lệ thuộc vào địa chủ chứ không có nghĩa vụ gì đối với nhà nước.
o Đời Nguyên, họ phải nộp tô nặng hơn trước và bị lệ thuộc nhiều hơn vào ruộng đất của địa chủ. Nông dân muốn rời bỏ ruộng của địa chủ là một việc rất khó. Thậm chí địa chủ còn can thiệp vào việc hôn nhân của tá điền và tự ý nô dịch con cái của họ.

Trong hai loại nông dân nói trên, nông dân tự canh là đối tượng nộp thuế và làm nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước, còn nông dân lĩnh canh là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp địa chủ. Vì vậy, nhà nước muốn duy trì đến mức tối đa tầng lớp nông dân tự canh, còn giai cấp địa chủ thì muốn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và bắt họ lệ thuộc mình. Do đó, đã dẫn đến sự giành giật ruộng đất và nông dân giữa nhà nước và giai cấp địa chủ.
Do bị áp bức, bóc lột nặng nề nên nông dân Trung Quốc thường xuyên nổi dậy khởi nghĩa. Nhìn chung, tất cả các cuộc khởi nghĩa ấy đều thất bại xét theo ý nghĩa chính trị, tức là không giải phóng được nông dân, không đem lại ruộng đất và quyền dân chủ cho họ. Dù khởi nghĩa có thắng lợi, thì lãnh tụ nông dân lại bước lên ngai vàng thiết lập triều đại mới, các lãnh tụ phong kiến hoá quay lại bóc lột giai cấp mình. Lý do chủ yếu làm cho phong trào nông dân thất bại là do nông dân không đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Nông dân có khả năng đập phá xã hội cũ nhưng không có khả năng đưa ra được cương lĩnh xây dựng một xã hội mới khác với xã hội phong kiến.

v Tầng lớp công thương:

- Tầng lớp thợ thủ công:
Từ đời Hán về sau, số lượng tầng lớp công thương tăng lên ngày càng nhiều. Thợ thủ công cũng bị nhà nước bóc lột nặng nề. Họ có nghĩa vụ phải nộp thuế và làm nghĩa vụ lao dịch bằng nghề nghiệp của mình. Những người nghèo, không có tư liệu sản xuất thì đi làm thuê cho nhà nước. Chính sách bóc lột của nhà nước cũng đã dẫn đến sự đấu tranh của thợ thủ công như: trốn nô dịch, bạo động chống quan hoạn đến thu thuế công thương.
- Tầng lớp thương nhân cũng rất phát triển. Nhưng xuất phát từ quan niệm nghề buôn bán là nghề ngọn, không phải là cơ sở của nền kinh tế phong kiến nên các triều đại phong kiến ở Trung Quốc đều thi hành chính sách kiềm chế sự phát triển kinh tế của họ như: thu thuế nặng, nhà nước độc quyền một số mặt hàng quan trọng, đồng thời kìm thấp địa vị chính trị của họ, không cho họ làm quan, xếp họ vào lọai cuối cùng cùng trong “tứ dân” (sĩ, nông, công, thương).

v Tầng lớp nô lệ: (Còn được gọi là nô tỳ)

- Nô lệ trong thời trung đại vẫn còn chiếm khá đông. Nguồn nô lệ chính là tù binh, những người phạm tội và những người quá nghèo khổ phải bán bản thân hoặc vợ con làm nô lệ.
- Thân phận của họ tuy có khác hơn so với thời kỳ cổ đại, nhưng họ vẫn bị coi là một thứ hàng hoá để mua bán và trao tặng. (Đời Hán, giá 1 nữ tì là 20.000 tiền – bằng giá 5 con ngựa).Tính mạng của nô lệ vẫn không được bảo đảm.
- Sức lao động của nô tỳ tuy cũng có bị sử dụng vào các ngành sản xuất như nông nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp,… nhưng phần lớn là dùng vào việc hầu hạ trong gia đình địa chủ.
Sự tồn tại đông đảo tầng lớp nô tỳ trong xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến nguồn thuế và lao dịch của nhà nước. Do đó, một số quan lại đã nêu ra vấn đề hạn chế hoặc xoá bỏ quan hệ nô lệ. Nhiều triều đại khi mới thành lập cũng tuyên bố giải phóng nô lệ, nhưng do cuộc sống bần cùng của nhân dân lao động, nên đến cuối chế độ phong kiến, nô lệ vẫn còn tồn tại.

3. TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

Tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến Trung Quốc ngay từ khi vừa thành lập và trong suốt thời kỳ tồn tại là Chính thể Quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền ngày càng hoàn thiện.

a. Triều Tần

v Ở trung ương

- Đứng đầu bộ máy nhà nước là Hoàng đế. Ông là người nắm mọi quyền lực nhà nước. Mọi công việc quan trọng của nhà nước đều được các đại thần thảo luận, nhưng Hoàng đế là người quyết định cuối cùng. Mệnh lệnh của hoàng đế phải được chấp hành một cách tuyệt đối. Hoàng đế ở trong cung điện tại kinh đô ở Hàm Dương, hàng ngày duyệt văn thư từ các nơi trong cả nước gởi tới.

- Dưới Hoàng đế là là bộ máy quan lại trung ương gồm Tam công và Cửu khanh.

· Tam công là 3 chức quan đầu triều, gồm:
1. Thừa tướng: tổng quản chính vụ, giúp hoàng đế cai trị dân, nắm thu chi của nhà nước, quản lý các công trình công cộng.
2. Thái úy: phụ trách về quân sự.
3. Ngự sử đại phu: nắm giữ văn thư và giám sát các quan.

· Cửu khanh gồm 9 vị quan phụ trách các công việc khác nhau như:
1. Lang trung lệnh: quản lý túc vệ thị tòng, thủ vệ cung điện trắc môn
2. Vệ uý: quản lý cung môn, bảo vệ các đồn lính
3. Thái phó: phụ trách việc hoàng đế sử dụng ngựa và mã chính toàn quốc
4. Đình úy: chưởng quản hình sự và thẩm phán
5. Điển khách: phụ trách tiếp đãi các dân tộc ít người quy phục về với triều đình và đối ngoại
6. Trị túc nội sử: coi về thuế má, kho tiền và sự thu nhập quốc gia
7. Tổng chính: coi sóc tiền tài trong hoàng tộc và đồ đạc trong thất
8. Thiếu phủ: phụ trách sự việc trong cung đình
9. Phụng thường: phụ trách chế độ lễ nghi và cúng tế.

v Ở địa phương

- Chế độ quan lại địa phương đời Tần được chia làm 2 cấp là quận và huyện.
- Tần Thủy Hoàng không thi hành chính sách phân phong ruộng đất mà chia cả nước thành 36 quận, đứng đầu là Quận thú.
- Mỗi quận lại chia ra một số huyện, do Huyện lệnh cai trị. Các quan ở quận và huyện đều do trung ương bổ nhiệm

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, trong 1 quận có Quan Thú coi việc chính trị, Quan Uy coi về quân sự. Trong một huyện có lệnh và dưới lệnh thì có thừa.

b. Nhà Hán

- Buổi đầu, bộ máy nhà nước Hán đại để vẫn theo chế độ của nhà Tần.
- Thế nhưng, vua đầu tiên của nhà Hán là Hán Cao Tổ thực hiện chính sách phân phong ruộng đất cho anh em, con cháu mình làm Vương hầu.
Vương hầu được quyền lập quân đội, thu tô thuế, đúc tiền và phát hành tiền không hạn chế trong khu vực do mình quản lý. Do đó, quyền lực của vương hầu ngày càng mạnh và họ âm mưu phản loạn cát cứ.
- Đến đời vua Hán Vũ Đế, ông thi hành nhiều chính sách làm suy yếu thế lực vương hầu, cụ thể là:
· Cho phép vương hầu phân phong đất cho con em của mình, nhằm phân tán đất và làm suy yếu thực lực của họ.
· Thay đổi chế độ tuyển dụng quan lại, ngoài việc chọn con em đại thần làm quan, hàng năm, các địa phương phải chọn người hiếu liêm để bổ sung vào hàng ngũ quan lại.
- Về bộ máy nhà nước
· Ở trung ương, về cơ bản, vẫn giữ nguyên các cơ quan như thời nhà Tần, tuy nhiên, lúc này Thượng thư lệnh nắm đại quyền của Thừa tướng.
· Ở kinh sư, tăng thêm cơ quan mới là Tam phụ, gồm có: Kinh Triệu Doãn, Tả Phong Dực, Hữu Phù Phong (cấp bậc này ngang với Quận thú).
· Ở địa phương:
Chia cả nước thành 13 bộ (châu) mỗi bộ đặt một quan Thứ sử, về sau đổi lại là Châu mục.
Dưới châu là quận, đứng đầu quận là Quận thú.
Dưới quận là huyện, đứng đầu huyện là Huyện lệnh.

Như vậy, chế độ quản lý ở địa phương có 3 cấp (bộ, quận, huyện). Và chế độ này được áp dụng suốt đến thời kỳ Nam Bắc Triều.

c. Nhà Đường

Nhà Đường lật đổ nhà Tuỳ. Kế thừa tổ chức bộ máy nhà nước của chính quyền tùy, tuy nhiên có thực hiện một số cải cách trong tổ chức bộ máy nhà nước nhằm củng cố và tăng cường chính thể quân chủ chuyên chế.

v Ở trung ương

- Thừa kế và hoàn thiện hơn chế độ tam tỉnh và lục bộ.

· Tam tỉnh: thượng thư tỉnh, trung thư tỉnh, môn hạ tỉnh. Đứng đầu là tể tướng.
Thượng thư tỉnh: chưởng quản những công việc hành chính lớn lao. Thượng thư tỉnh gồm 6 bộ (lục bộ):
1. Bộ lại: phụ trách việc quan lý quan lại.
2. Bộ hộ: quản lý hộ, hôn, điền sản.
3. Bộ binh: phụ trách quân sự.
4. Bộ lễ: phụ trách lễ nghi, triều tiết.
5. Bộ hình: quản lý việc xét xử.
6. Bộ công: quản lý thủ công nghiệp, buôn bán.
Đứng đầu mỗi bộ là Thượng Thư. Phó là Thị Lang. Dưới mỗi bộ có 4 ty, đứng đầu mỗi ty là Lang Trung.
Trung thư tỉnh: soạn thảo văn bản, luật lệnh.
Môn hạ tỉnh: có nhiệm vụ thẩm nghị sách lệnh sáng chế quy định và ban bố.

Tuy đã có sự phân công nhiệm vụ, quyền hạn nhưng các cơ quan này vẫn thường xuyên hổ trợ phối hợp với nhau, là cơ chế tể tướng tập thể.

- Ngoài ra, nhà Đường còn lập một số cơ quan khác như:

· Đại lý tự: cơ quan xét xử tối cao.
· Ngự sử đài: cơ quan kiểm sát tối cao, giám sát quan lại trung ương và địa phương. Trưởng quan ngự sử đài do Hoàng đế trực tiếp lãnh đạo….

v Ở địa phương

- Chia cả nước thành 10 đạo (đến thế kỷ thứ 8 tăng lên thành 15 đạo). Đứng đầu mỗi đạo là thứ sử.
- Dưới đạo vẫn là quận (châu), huyện.
- Đứng đầu châu là thích sử, đứng đầu huyện là huyện lệnh.
- Quan lại từ cấp huyện trở lên do triều đình bổ nhiệm.

v Một cải cách có ý nghĩa vô cùng quan trong khác của nhà Đường là cải cách chế độ sĩ tộc và mở rộng khoa cử.
- Chế độ Sĩ tộc không theo dòng dõi huyết thống như trước mà theo phẩm trật cao thấp của quan lại. Phẩm trật còn gọi là phẩm hàm hoặc tước vị. Phẩm hàm gồm có chính bậc (cửu phẩm) theo thứ tự từ cao đến thấp. Mỗi bậc lại có 2 cấp. Như vậy, thực tế có 18 cấp bậc.
- Còn chế độ khoa cử có tổng cộng 8 khoa mục, trrong đó, quan trọng nhất là khoa tiến sĩ.

v Quân đội

- Tổ chức theo chế độ phủ binh (trưng binh nông dân dựa theo chế độ quân điền).
Đàn ông phải gia nhập phủ binh từ năm 20 – 60 tuổi. Hàng ngày ở nhà làm ruộng và luyện tâp quân sự. Hàng năm thay nhau lên kinh đô làm quân túc vệ hoặc đồn thú ở biên cương. Khí giới, trang bị, lương thực do binh sĩ tự túc. Khi có chiến tranh, binh sĩ được tập trung lại theo tướng soái ra trận. Khi chiến tranh chấm dứt thì tướng về triều, binh về đạo.
- Từ giữa thế kỷ thứ 8, chế độ phủ binh được thay thế bằng chế độ mộ binh.
Những con em nhà giàu, khỏe mạnh được đưa vào kinh đô làm quân túc vệ. Đối với vùng biên thuỳ thì binh lính được trưng dụng tại chỗ, đồng thời đặt chức Tiết độ sứ, nắm binh quyền đề phòng ngự biên cương và trấn áp nhân dân.
- Thời trung Đường, Tiết độ sứ kiêm luôn cả chức Thứ sử, nắm đại quyền quân chính ở địa phương. Về sau, chính các Tiết độ sứ này là những phần tử phản loạn cát cứ.

d. Nhà Tống

- Tổ chức bộ máy nhà Tống về cơ bản giống mô hình của nhà Đường.
- Nhưng rút kinh nghiệm của nhà Đường trong việc giao cho Tiết độ sứ quyền lực quá lớn, tạo cơ hội cho Tiết độ sứ uy hiếp chính quyền trung ương, Nhà Tống thu hồi binh quyền của các Tiết độ sứ bằng cách bãi bỏ các đạo. Cả nước chia thành nhiều khu vực nhỏ hơn gọi là Lộ, do Tri Lộ đứng đầu. Dưới Lộ vẫn là Châu, Huyện Xã.
- Nhà Tống rất chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ quan lại thông qua con đường khoa cử.

e. Nhà Nguyên

- Do là một dân tộc có nền văn minh thấp kém hơn so với dân tộc bị trị, nên người Mông Cổ đã bắt chước mô hình tổ chức nhà nước, chế độ phân phong ruộng đất thuế khóa của người Trung Quốc trước đó.
- Mặt khác, Nhà Nguyên thi hành chế độ phân biệt đối xử dân tộc trắng trợn.
· Cư dân được chia thành 4 hạng người:
1. Người Mông Cổ;
2. Người Sắc Mục (người Hạ, người Trung A, người Ba Tư…);
3. Người Hán ( người Khiết Đan, Hán, Cao Li…);
4. Người Nam (các tộc người ở phía Nam Trung Quốc).
· Trong đó, các chức quan trong bộ máy nhà nước, trước nhất dành cho người Mông Cổ, rồi đến người Sắc Mục, sau đó mời đến Người Hán. Quyền chỉ huy quân đội hoàn toàn thuộc về người Mông Cổ.
- Một số thay đổi trong bộ máy nhà nước:
· Lục bộ không còn do Thượng thư tỉnh cai quản mà do Trung thư tỉnh.
· Ở địa phương, chia cả nước thành 10 hành tỉnh. Dưới tỉnh là lộ (đứng đầu là Đạt lỗ hoa xích và Tổng quản), châu (đứng đầu là Châu doãn) và huyện (đứng đầu là Huyện doãn).
- Sau này, Nhà Nguyên khôi phục lại chế độ khoa cử. Lúc đó, con em người Hán đỗ đạt và chiếm số lượng lớn trong hàng ngũ quan lại.

f. Nhà Minh

Chu Nguyên Chương sau khi lật đổ được Nhà Nguyên, lập nên Nhà Minh đã tiến hành cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, làm cho cơ chế thực hiện quyền lực quân chủ phát triển đến mức cực đoan.

- Chức thừa tướng bị bãi bỏ để tập trung quyền lực vào tay nhà vua.
- Từng bộ phận của lục bộ phải chịu trách nhiệm trước nhà vua.
- Ngự sử đài được đổi tên thành Đô sát viện, có chức năng kiểm sát quan lại và xét xử.
- Thành lập Hàn lâm viện để soạn thảo các văn kiện. Đông các viện để sửa chữa các văn kiện. Quốc tử giám trông coi việc giáo dục. Tư thiên giám trông coi thiên văn và định lịch pháp…
- Cải đổi Trung thư tỉnh thành Nội các (tập hợp các Hàn lâm biên tu, Thái học sĩ).
- Ở địa phương, Nhà Minh đổi đạo, quận (châu), huyện thành tỉnh, phủ, huyện, xã.
· Nếu trước đây, quyền hành của đạo được tập trung vào tay của một viên quan thì nay quyền hành ở tỉnh được chia cho Tam ti. Tam ti do triều đình trực tiếp chỉ huy và thường xuyên chịu sự giám sát của đô sát viện, các giám sát ngự sử, gồm có 3 quan:
Thừa tuyên bố chính sứ ti: quản lý hành chính
Đề hình án sát sứ ti: nắm quyền tư pháp.
Đô chỉ huy sứ ti: nắm quyền chỉ huy quân đội.
Sở dĩ chỉ có quyền hành của người quản lý ở cấp tỉnh bị phân chia vì tỉnh là một khu vực lớn, dễ xưng hùng xưng bá, nên nhà minh chia ra như vậy nhằm tránh nạn phân quyền cát cứ.
· Đứng đầu phủ là tri phủ.
· Đứng đầu huyện là tri huyện
· Đứng đầu xã là xã trưởng.
- Về quân đội, Nhà Minh đặt ra Ngũ quân đô đốc phủ (trung, tả, hữu, tiền, hậu). Quản lý các đội quân binh này là Đô đốc phủ, nhưng chỉ có nhiệm vụ nắm sổ binh, không trực tiếp chỉ huy quân đội. Khi có chiến tranh, hoàng đế cử tướng soái chỉ huy quân đội. Chiến tranh kết thúc, họ phải trả lại ấn tín và về lại nhiệm sở. Bằng cách đó, vua trực tiếp nắm giữ quân đội.

g. Nhà Thanh

Cũng là một triều đại ngoại tộc có trình độ phát triển thấp hơn người Trung Quốc, nên giống như Nhà Nguyên, Nhà Hán tiếp tục xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan và cũng thi hành chế độ phân biệt sắc tộc.
- Trong bộ máy nhà nước, Hoàng đế nắm quyền lực tối cao và trực tiếp giải quyết mọi việc.
- Dưới Hoàng đế là một cơ quan tối cao gọi là “Quân cơ xứ”, do Hoàng đế trực tiếp lãnh đạo để giải quyết những vấn đề quan trọng. Thành viên của Quân cơ xứ là những quý tộc cao cấp người Mãn.
- Lục bộ lúc này chỉ là cơ quan chấp hành theo ý chí của Hoàng đế.
Theo quy định, chỉ có một số quan cao cấp mới được tấu trình. Do đó, hoàng đế nhà thanh ngày càng xa rời cấp dưới.
- Ở địa phương, Hoàng đế trực tiếp bổ nhiệm quan lại cấp tỉnh. Quan lại người Hán không được nhận chức ở quê nhà (hạn chế việc quan lại Hán tộc liên hệ với nhân dân địa phương chống lại triều đình Mãn Thanh).
- Về quân đội, được chia thành 2 loại:
· Quân Bát kỳ: là quân chủ lực của triều đình, đóng ở kinh đô và các vùng trọng yếu, được hưởng nhiều ưu đãi;
· Quân Lục doanh: là quân đội Hán tộc ở các địa phương.

Ø TỔNG QUAN VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

1. Chức Tể tướng

- Trong nhà Tần, chức Tể tướng là một chức quan trọng cơ cấu Tam công, có nhiệm vụ tổng quản chính vụ, giúp Hoàng đế cai trị dân, nắm thu chi của nhà nước, quản lý các công trình công cộng. Có lúc phân chia thành Tả Hửu Thừa tướng. Nếu dùng hoạn quan đảm nhiệm chức thừa tướng thì gọi là Trung thừa tướng, được vào nội điện tâu mọi việc lên Hoàng đế.
- Thời Tây Hán, phủ thừa tướng có Trưởng sử, còn gọi là Bí thư trưởng..
- Thời Tuỳ , Đường không đặt ra chức Tướng quốc. Đứng đầu Tam tỉnh đều là chức Tể tướng.
- Nhà Tống, dùng Đàm Môn Hạ, Đồng Trung Thư, Bình Chương Sự làm Tể tướng chính và lấy Tham Tri Chính Sự làm Phó tể tướng. Về sau, danh xưng Tể tướng được sửa đổi nhiều lần: Thượng Thư Tả Bộc Xạ Kiêm Môn Thị Lang; hoặc Thái Tể Kiêm Môn Hạ Thị Lang; hoặc Tả Thừa Tướng, Hữu Thừa Tướng.
- Triều Nguyên, ở Trung thư tỉnh có Tả Hữu Thừa tướng.
- Triều Minh, triệt tiêu Trung thư tỉnh và Tả Hữu Thừa tướng, tất cả mọi việc đều do Hoàng đế trực tiếp quyết định. Tuy nhiên, có dùng các Học sĩ làm quan cố vấn cho nhà vua, đại học sĩ tuy không có danh xưng là Tể tướng nhưng thực sự là Tể tướng.
- Nhà Thanh, đặt ra cơ quan “Quân cơ xứ”, chức quyền của Nội các Đại học sĩ dần dần bị Quân cơ xứ thay thế. Do đó, Quân cơ xứ cũng dần thay thế vai trò Tể tướng của Đại học sĩ.
Như vậy, để quản lý quốc gia rộng lớn như Trung Quốc, Hoàng đế dưới triều đại nào cũng cần có một vị quan hay một hội đồng thân tính giúp việc với tính chất là 1 Tể tướng.

2. Các cơ quan ở địa phương.

a. Tỉnh

- Ban đầu Tỉnh là tên của cơ quan trung ương (Thượng Thư Tỉnh, Trung Thư Tỉnh, Hạ Môn Tỉnh…).
- Đời Nguyên, Trung Thư Tỉnh cai quản Lục bộ, cơ cấu Trung thư tỉnh phái xuất ra là Hành Trung Thư Tỉnh, là cơ quan hành chính tối cao ở địa phương. Toàn quốc, trừ kinh đô và Tây Tạng, các địa phương còn lại đặt thành 10 hành trung thư tỉnh. Từ đó, Hành Trung Thư Tỉnh đã biên chế thành cơ cấu địa phương.
- Nhà Minh bãi bỏ Trung Thư Tỉnh. Từ đó về sau, tỉnh không còn là cơ cấu của trung ương nữa. Hành Trung Thư Tỉnh ở địa phương được đổi lại thành Thừa Tuyên Bố Chính Sứ Ty (nhưng theo thói quen, người ta vẫn gọi địa phương là Tỉnh). Trừ kinh đô ra, toàn quốc được chia thành 13 bố chính sứ ty (tỉnh).
- Nhà Thanh chia toàn quốc thành 18 tỉnh, về sau lại tăng lên đến 23 tỉnh.

b. Châu

- Ban đầu, Trung Quốc có 9 Châu, châu ở đây là khu vực hoạt động của bộ lạc. (Cửu châu tức là chỉ 9 bộ lạc sinh sống ở Trung Quốc.)
- Thời Hán Võ Đế, chia toàn quốc thành 13 bộ, về sau gọi là châu. Mỗi châu đặt 1 quan Thứ sử để giám sát các quan lại ( châu là khu giám sát).
- Cuối thời Đông Hán, châu quan trọng được đổi thành mục, triều đình cử cửu khanh đến trấn nhậm (châu là khu hành chính).
- Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều, châu là khu hành chính cao nhất, đứng đầu vẫn là Thứ sử. Châu quan trọng vẫn gọi là mục.
- Đời Tuỳ, châu và quận cùng 1 cấp.

c. Huyện

- Thời Tây Chu, ở Trung Quốc đã đặt huyện. (Trong thành nội chia thành nhiều huyện. Ở bên ngoài , chia thành các toại, mỗi toại lại chia thành 5 huyện. Mỗi huyện có khoảng 2500 hộ, đứng đầu là chính huyện.)
- Khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, cứ vạn hộ trở lên gọi là đại huyện, đứng đầu là Huyện lệnh; không đủ vạn hộ gọi là tiểu huyện, đứng đầu là tiểu huyện là Trưởng huyện.
- Về sau, huyện luôn là cơ quan địa phương của các triều đại. Tuy nhiên, tên gọi, chức vụ của vị quan đứng đầu huyện có thay đổi: Huyện Tể, Tri Huyện, Huyện Doãn…

4. ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

a. Nhà nước phong kiến Trung Quốc là chính thể quân chủ chuyên chế điển hình ở phương đông.

- Trong tất cả các triều đại, Hoàng đế luôn là người đứng đầu nhà nước, toàn bộ quyền lực đều tập trung vào tay nhà vua.
· Cơ cấu bộ máy nhà nước là nhất nguyên chế, ngòai quyền lực của Hoàng đế ra, không có cơ cấu lập pháp, hành pháp, tư pháp.
· Quan lại, thuộc hạ các cấp đều là tôi tớ của Hoàng đế. Để cho nền thống trị trên toàn quốc có thực lực mạnh mẽ, hệ thống quan lại được chia thành 2 cấp: trung ương và địa phương. Quan lại của trung ương và địa phương thực hiện quyền lực của Hoàng đế khắp ngang cùng ngõ hẻm. Họ trở thành đại biểu của nhà vua, và thông qua họ, nhà vua có thể kiểm soát được toàn quốc, toàn dân, nhờ đó, chế độc quân chủ chuyên chế càng được củng cố.
- Trong lịch sử phát triển lâu dài của mình, nhà nước phong kiến trung quốc không tránh khỏi những thời kỳ bị phân quyền cát cứ ngắn. Như thời kỳ Tam Quốc Chí, thời kỳ Nam Bắc Triều, thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Nhưng trạng thái phân quyền cát cứ chỉ là tạm thời, nó không phá vỡ được cả tiến trình phát triển của nền quân chủ chuyên chế.
v Lý do:
- Giống như trong chế độ chiếm hữu nô lệ, nhà vua nắm quyền sở hữu tối cao ruộng đất; nhà nước gánh vác chức năng trị thủy các con sông lớn, chức năng tiến hành chiến tranh… Do đó, cần phải tập trung quyền lực vào tay vua để huy động được sức người, sức của trong thiên hạ.
- Bên cạnh đó, do đặc thù lịch sử, công xã nguyên thủy Châu A tan rã không triệt để, công xã nông thôn còn tồn tại một cách bền vững với vai trò là tế bào vững chắc nhất của nền chuyên chế phương đông với đầy đủ truyền thống quyền uy gia trưởng, quyền uy bạo lực, quyền uy tôn giáo, quyền uy pháp luật, quyền uy bạo lực, quyền uy kinh tế… Tất cả các quyền uy đó tập hợp lại thành một thứ quyền uy vô hạn, mà đại diện tối cao của nó là nhà vua.

b. Nhà nước sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị trong suốt thời kỳ phong kiến.
- Nho giáo là một học thuyết do khổng tử khởi xướng từ thời xuân thu, được thoàn thiện và bổ sung trong các thời đại về sau. Tư tưởng căn bản của nho giáo là muốn tạo ra một xã hội ổn định trong gia đình, trong nhà nước và trên toàn thế giới. Mục tiêu cơ bản của học thuyết này là bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị.
- Nho giáo yêu cầu hành vi của con người trước hết phải dựa vào một hệ thống luân lý đạo đức nghiêm ngặt, sau đó mới dựa theo chuẩn mực của pháp luật. Theo đó, hệ thống luân lý mà nho giáo đưa ra là: người trẻ tuổi phải phục tùng người nhiiều tuổi, người dước phải phục tùng người trên, người không phải là người Trung Quốc phải phục tùng người Trung Quốc; trói buộc con người trong mối ràng buộc của tam cương (vua –tôi; vợ – chồng; cha – con) nhằm củng cố trật tự đẳng cấp phong kiến, mà cụ thể là trật tự quan liêu và trật tự gia trưởng. Trong đó, trung quân là là cốt lõi của mọi trật tự xã hội và mọi quan hệ xã hội.
- Như vậy, Nho giáo giải quyết các mối quan hệ trong xã hội theo chiều hướng bất bình đẳng vầ xã hội chính trị và dân tộc. Nó có lợi cho giai cấp thống trị nên được nhà nước phong kiến Trung Quốc lợi dụng, biến nó thành hệ tư tưởng thống trị của mình.


c. Luôn tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm mở rộng lãnh thổ.

- Chức năng xâm lược là một chức năng cơ bản của nhà nước phong kiến Trung Quốc. Theo quan điểm của đạo Nho, thiên hạ rất rộng, tất cả các vùng ngoài Trung Quốc đều là thiên hạ. Mà thiên hạ thì thuộc về Hoàng đế, do đó, Hoàng đế có nhiệm vụ bình thiên hạ, tức là phải chinh phục các nước khác.
- Chúng ta có thể thấy trong suốt 2000 năm của thời kỳ phong kiến, hầu hết các triều đại đều tiến hành công cuộc chinh phục, mở mang bờ cõi. Trong quá trình xâm lược, các đế chế phong kiến Trung Hoa thực hiện nhiều phương thức và thủ đoạn như:
· Chinh phục đi đôi với đồng hóa.
· Kết hợp các thủ đoạn ngoại giao, kinh tế, chính trị, quân sự…
· Di dân, lấn chiếm lãnh thổ, quay rối biên giới rồi tiến tới vũ trang xâm lược.
· Lôi kéo, chia rẽ, dùng nước này đánh nước khác…

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code