THS. NGUYỄN THỊ LÁNG - Chi nhánh Văn phòng luật Pricewater house cooper Legal
Một trong những mục tiêu của pháp luật về đầu tư nước
ngoài theo phương thức hợp đồng BOT là phải khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi đối với nhà đầu tư nước ngoài nhằm tối đa hóa tốc độ và phạm
vi của dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cho sự phát triển các công
trình cơ sở hạ tầng. Để thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài theo phương
thức hợp đồng BOT, Nhà nước cần phải có các hình thức khuyến khích và
một số hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các dự án BOT. Mức độ và
loại hình hỗ trợ của mỗi Chính phủ nước chủ nhà tùy thuộc vào rủi ro có
tính quốc gia, tính khả thi của dự án, nhu cầu của Nhà nước đó đối với
dự án và vị trí có tính cạnh tranh của nước chủ nhà.
Xuất phát từ nhu cầu trên, Nhà nước ta đã ban hành
Luật đầu tư nước ngoài quy định các biện pháp khuyến khích đầu tư và cụ
thể hóa chúng tại Quy chế đầu tư theo Hợp đồng xây dựng – kinh doanh –
chuyển giao, Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh và Hợp đồng
xây dựng – chuyển giao áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban
hành kèm theo Nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 của Chính phủ (Quy
chế BOT). Theo đó các biện pháp khuyến khích đầu tư đối với dự án BOT
bao gồm cả những biện pháp tài chính và hành chính. Các biện pháp này
tập trung khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực đã được thể
hiện trong các danh mục dự án khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu
tư, vào các địa bàn khuyến khích đầu tư.
Một trong những hình thức khuyến khích đầu tư quan
trọng nhất đối với các dự án BOT là các hình thức bảo lãnh của Chính
phủ. Khác với các dự án đầu tư thông thường khác, các hình thức bảo đảm
có tính truyền thống như thế chấp đất đai không được các bên cho vay của
một dự án BOT quan tâm tới. Xét trên quan điểm của bên cho vay các công
cụ bảo lãnh khác như bảo lãnh gián tiếp đối với doanh thu thông qua hợp
đồng bao tiêu dài hạn, theo đó Chính phủ bảo lãnh việc thực hiện nghĩa
vụ đối với dự án BOT của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bảo đảm của
Chính phủ nhằm bảo vệ cho doanh nghiệp BOT tránh khỏi cạnh tranh để bảo
đảm nguồn thu theo dự kiến thường là các hình thức hỗ trợ tài chính
quan trọng hơn. Các thỏa thuận bảo lãnh phù hợp với tính chất của một dự
án BOT thường được quy định trong hợp đồng dự án, hợp đồng mua và hợp
đồng tín dụng. Tuy nhiên cần phải có các quy định pháp luật cụ thể để
bảo vệ một cách hợp pháp các hình thức bảo lãnh này, đây là các hình
thức có tầm quan trọng đối với sự thành công của dự án BOT. Việc thiếu
các điều khoản quy định về bảo vệ và thực hiện các thu xếp bảo lãnh
trong hệ thống pháp lý của một quốc gia làm cho các ngân hàng hết sức e
ngại khi cho các dự án BOT vay vốn.
Cụ thể hóa các nguyên tắc nói trên các quy định pháp
luật hiện hành của chúng ta về đầu tư nước ngoài theo phương thức hợp
đồng BOT đã có nhiều quy định về các bảo đảm và cam kết đầu tư của Chính
phủ. Cũng như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác, doanh
nghiệp BOT được hưởng các bảo đảm của Nhà nước Việt Nam đối với việc đầu
tư của họ. Ngoài những bảo đảm chung của Nhà nước Việt Nam đối với nhà
đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư đầu tư theo
phương thức BOT còn được hưởng các cam kết đặc biệt của Chính phủ Việt
Nam trong việc ủy quyền cho Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thay mặt
Chính phủ bảo lãnh việc thực hiện các cam kết về nghĩa vụ tài chính của
các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thực hiện dự án; bảo lãnh các nghĩa
vụ của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc bán nguyên liệu, mua sản
phẩm hoặc dịch vụ chủ yếu để thực hiện dự án BOT. Đây là một nội dung
mới của Quy chế đầu tư BOT năm 1998 nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà
đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án BOT tại Việt Nam.
Bảo lãnh trách nhiệm thanh toán và trách nhiệm thực
hiện hợp đồng của các doanh nghiệp Việt Nam tham gia các hợp đồng phụ
của dự án là một vấn đề quan trọng mà các chủ đầu tư hay nhà tài trợ dự
án đều yêu cầu Chính phủ thực hiện. Nhận thức được vấn đề này, Điều 10
Nghị định 62 /1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 của Chính phủ quy định trong
trường hợp cần thiết Chính phủ Việt Nam có thể ủy quyền cho Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thay mặt Chính phủ bảo lãnh việc thực hiện các nghĩa
vụ tài chính của doanh nghiệp Việt Nam. Quy định này nhằm tập trung xử
lý các vấn đề liên quan đến dự có thẩm quyền. Đồng thời đây là bước tiến
bộ đáng kể so với Quy chế đầu tư BOT năm 1993 ban hành kèm theo Nghị
định 87/CP. Quy chế BOT năm 1993 quy định chỉ cho phép bảo đảm nghĩa vụ
tài chính đối với bên Việt Nam như được quy định trong hợp đồng BOT và
thậm chí việc bảo đảm đó chỉ do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng Việt
Nam thực hiện. Theo Nghị định 62 việc bảo đảm đó có thể do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền được Chính phủ ủy quyền thực hiện.
Thực tế cho thấy trong những năm qua Chính phủ Việt
Nam đã cấp các bảo lãnh cho một số chủ đầu tư dự án BOT khi họ có yêu
cầu. Tuy vậy, liên quan đến vấn đề bảo lãnh của Chính phủ vẫn còn phát
sinh rất nhiều vấn đề gay cấn cần phải được nghiên cứu kỹ trong thời
gian tới nhằm rút ngắn việc đàm phán các bảo lãnh của Chính phủ và tránh
các quy định còn mơ hồ chồng chéo dưới đây:
Thứ nhất về phạm vi của bảo lãnh Chính phủ
và các trường hợp bồi thường theo hợp đồng. Việc bảo lãnh của Chính phủ
đối với nghĩa vụ thanh toán và trách nhiệm thực hiện hợp đồng của các
doanh nghiệp Việt Nam tham gia thực hiện dự án được coi là cách thức
chia sẻ rủi ro của Chính phủ nước sở tại đối với các dự án BOT, nhằm
giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là luật pháp phải quy định rõ mức độ bảo lãnh của
Chính phủ đối với các dự án BOT là đến đâu. Theo quy định của luật pháp
Paskistăng, Chính phủ Paskităng bảo đảm thanh toán cho các công ty BOT
bất kỳ và tất cả các khoản tiền là nghĩa vụ phải thanh toán cho công ty
BOT theo hợp đồng BOT mà tổ chức đó không thanh toán khi đến hạn hoặc
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của tổ chức đó theo Bảo hiểm rủi ro mà trong
đó nghĩa vụ của Chính phủ Pakistăng sẽ bao gồm cả việc bồi thường bằng
tiền.
Ở Việt Nam, mặc dù Quy chế BOT có quy định về việc
bảo lãnh của Chính phủ đối với nghĩa vụ thanh toán và các nghĩa vụ khác
của các doanh nghiệp Việt Nam tham gia các hợp đồng dự án nhưng phạm vi
bảo lãnh chưa được quy định rõ ràng. Vì vậy thực tế phát sinh mâu thuẫn
giữa lợi ích của nhà đầu tư trong dự án BOT và Chính phủ Việt Nam trong
quá trình đàm phán dự án. Theo cách hiểu của một số người, phạm vi bảo
lãnh chỉ thu hẹp trong phạm vi các hợp đồng phụ quan trọng như hợp đồng
mua bán các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu của dự án (như hợp đồng mua bán
điện, mua bán khí). Nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư nước ngoài đều
yêu cầu một phạm vi bảo lãnh rất rộng, bao gồm hầu như tất cả các hợp
đồng phụ của dự án như hợp đồng thuê đất, hợp đồng mua nước ký với các
Công ty cấp nước của địa phương (đối với các dự án BOT về điện), hợp
đồng sử dụng cơ sở hạ tầng…vì họ cho rằng các đối tác Việt Nam tham gia
dự án đều là các doanh nghiệp Nhà nước, do vậy trách nhiệm của Chính phủ
là phải bảo lãnh cho trách nhiệm thực hiện hợp đồng của các doanh
nghiệp này. Các trường hợp vi phạm theo hợp đồng phụ này đều được coi là
vi phạm của Chính phủ và Chính phủ đều phải có trách nhiệm bồi thường
cho doanh nghiệp BOT tùy theo mức độ vi phạm. Vì vậy thực tế này đặt ra
là cần phải quy định rõ ràng trong luật pháp về phạm vi bảo lãnh nhằm
tránh dồn quá nhiều rủi ro cho Chính phủ đồng thời cũng đảm bảo cho
quyền lợi của các nhà đầu tư dự án.
Thứ hai liên quan đến hình thức bảo lãnh của
Chính phủ. Mặc dù Nghị định 62 quy định việc cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thay mặt Chính phủ bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của Doanh nghiệp
Việt Nam tham gia thực hiện dự án trong một số trường hợp đặc biệt như
Bộ Công nghiệp bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán của Tổng công ty điện lực
Việt Nam theo hợp đồng mua bán điện ký với Doanh nghiệp BOT, nhưng các
nhà đầu tư nước ngoài vẫn lo ngại rằng Bộ Công nghiệp không có thẩm
quyền cấp bảo lãnh vì theo Nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ của
Bộ Công nghiệp không có chức năng cấp bảo lãnh cho doanh nghiệp cũng
như không có chức năng tham gia các giao dịch thương mại. Ngoài ra, họ
lo ngại rằng Bộ Công nghiệp không có khả năng thanh toán đối với bảo
lãnh cấp cho Doanh nghiệp vì Bộ là cơ quan quản lý Nhà nước và hoạt động
trên cơ sở kinh phí do Ngân sách cấp. Theo các quy định về Luật Ngân
sách Nhà nước các nhà đầu tư vẫn lo ngại rằng Bộ Tài chính có thể từ
chối cấp kinh phí cho Bộ Công nghiệp để thanh toán cho bảo lãnh đã cấp
nếu như khoản chi đó không nằm trong dự trù Ngân sách đã được phê duyệt.
Như vậy xuất phát từ việc chưa hoàn thiện và đầy đủ của hệ thống pháp
luật Việt Nam nên các lo ngại của nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến
thẩm quyền của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo lãnh nghĩa
vụ thanh toán cho Doanh nghiệp Việt Nam tham gia thực hiện dự án thể
hiện ở chỗ (i) Cơ quan bảo lãnh có thể không có thẩm quyền cấp bảo lãnh;
(ii) Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể không có khả năng thanh
toán; (iii) Bộ Tài Chính có thể từ chối cấp vốn thanh toán cho bảo lãnh
của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, mặc dù có quy định về bảo lãnh của Chính phủ
nhưng các nhà đầu tư được cung cấp bảo lãnh cũng không thỏa mãn. Chính
phủ không phải là người trực tiếp cấp bảo đảm. Chính phủ uỷ quyền cho Cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để cung cấp các bảo đảm đó mà thực tế không
phải mọi cơ quan ủy quyền đều được đánh giá ngang nhau dưới đánh giá
của các ngân hàng nước ngoài. Một số cơ quan được ủy quyền có liên quan
trực tiếp tới tài chính một số cơ quan khác không có được quyền này.
Chính vì vậy nhà đầu tư thường tìm cách gần với các quy định có hiệu lực
cao nhất càng tốt mặc dù họ hoàn toàn đồng ý với các bảo đảm do Chính
phủ trực tiếp cấp. Thực tế cho thấy có dự án tuy đã được UBND địa phương
bảo lãnh về tài chính, nhưng chủ đầu tư vẫn yêu cầu Bộ tài chính cấp
bảo lãnh lần nữa trong trường hợp UBND không thực hiện được các cam kết.
Như vậy phía Việt Nam phải thực hiện bảo lãnh tài chính 2 lần, mất rất
nhiều thời gian và nói chung theo các luật sư nước ngoài họ tin tưởng và
cho rằng Bộ tài chính cấp bảo lãnh là hợp lý và thuận tiện cho việc thu
xếp tài chính sau này hơn.
Thứ ba liên quan đến việc cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền trực tiếp cấp bảo lãnh trên cơ sở ủy quyền của Chính phủ
cũng phát sinh một hạn chế khác là liệu cơ quan được ủy quyền có phải
giống với cơ quan ký kết hợp đồng BOT? Trong trường hợp này, xuất hiện
một vấn đề là nếu cơ quan được ủy quyền là Ủy ban nhân dân như trong
trường hợp dự án Lyonnaise tại TP. Hồ Chí Minh thì những tổ chức đó cũng
không được xem là những cơ quan có tài chính theo đánh giá của các nhà
cho vay.
Thứ tư hiện nay chưa có quy định những cơ
quan được ủy quyền nào có thể bảo lãnh hoặc thực sự thực hiện những bảo
đảm đó? Luật Ngân hàng Nhà nước không cho phép Ngân hàng Nhà nước cung
cấp bảo lãnh các khoản vay đối với các tổ chức và cá nhân. Nghị định 90
của Chính phủ quy định rằng Bộ tài chính có thể bảo lãnh cho các tổ chức
hoặc cá nhân nhưng chỉ đối với các khoản vay nước ngoài. Các Bộ và Ủy
ban nhân dân là các cơ quan quản lý hành chính, Ngân hàng Nhà nước và
Kho bạc Nhà nước là các cơ quan quản lý tài chính do vậy không có cơ sở
pháp lý rõ ràng (ngoài các hướng dẫn dự án cụ thể) cho các cơ quan được
uỷ quyền được cung cấp bảo lãnh. Nhà đầu tư sẽ quan tâm đến khả năng của
các cơ quan được uỷ quyền để tìm ra nguồn tài chính để thực hiện các
nghĩa vụ được bảo đảm. Các nhà cung cấp vốn và tài trợ dự án của dự án
BOT vì vậy thường kết luận rằng Bộ Tài chính là cơ quan duy nhất đáp ứng
là nhà bảo lãnh tài chính cấp bộ bảo lãnh nghĩa vụ tài chính.
Ngoài ra, cơ chế thực hiện việc thanh toán bảo lãnh
và tiền bồi thường chấm dứt hợp đồng trước thời hạn hiện đang được các
cơ quan liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp…) nghiên cứu trình Thủ
tướng Chính phủ và hiện tại vẫn chưa có những quy định cụ thể và rõ ràng
về vấn đề này. Cũng liên quan đến bảo lãnh nêu trên của Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, các nhà đầu tư nước ngoài yêu cầu bảo lãnh cần được
cụ thể hóa thông qua các dàn xếp theo hợp đồng phù hợp giữa nhà đầu tư
và Nhà nước.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 2/2004



3:07 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment