So với Thông tư 128/2003/TT-BTC trước
đây, Thông tư 134 có nhiều điểm tiến bộ hơn. Tuy nhiên, trong phần quy
định về lãi suất tiền vay được thừa nhận vào chi phí khi xác định thu
nhập chịu thuế vẫn còn một “hạt sạn”, trái với quy định của Luật DN.
Về các khoản lãi trả tiền vay không được
thừa nhận vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế, tại mục 2.16,
khoản 2, phần III của TT134, quy định: “Các khoản chi trả lãi tiền vay
để góp vốn điều lệ hoặc chi trả lãi tiền vay tương ứng với phần vốn điều
lệ đã đăng ký còn thiếu kể cả trường hợp cơ sở kinh doanh đã đi vào sản
xuất kinh doanh”. Mục đích của quy định nêu trên là ngăn chặn tình
trạng đăng ký vốn “ảo” khi đăng ký thành lập DN đang xảy ra một cách khá
phổ biến hiện nay. Song, quy định trên lại mâu thuẫn với quy định của
Luật DN về việc góp vốn điều lệ.
Khoản 1, Điều 39 Luật DN quy định việc
thực hiện góp vốn và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp đối với Cty TNHH
có từ hai thành viên trở lên như sau:
“Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng
hạn bằng loại tài sản góp vốn như đã cam kết”..và “Người đại diện theo
pháp luật của Cty phải thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn đăng ký
đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
cam kết góp vốn…”. Tương tự như vậy, khoản 1 Điều 84 Luật DN quy định
đối với việc góp vốn điều lệ của Cty cổ phần như sau:
“1. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau
đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và
phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn chín mươi
ngày, kể từ ngày Cty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
Khoản 4 Điều 84 cho phép “4. Trường hợp
các cổ đông sáng lập không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào
bán thì số cổ phần còn lại phải được chào bán và bán hết trong thời hạn
ba năm, kể từ ngày Cty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
Như vậy, Luật DN không yêu cầu các thành
viên góp vốn thành lập Cty TNHH có từ hai thành viên trở lên phải góp
vốn ngay sau khi nhận Giấy chứng nhận kinh doanh mà được phép “cam kết
tiến độ” góp vốn và bản cam kết này phải được thông báo đến cơ quan đăng
ký kinh doanh. Với các Cty cổ phần, các cổ đông sáng lập chỉ có trách
nhiệm mua và phải góp đủ tiền đối với 20% vốn điều lệ, 80% còn lại là cổ
phần chào bán và phải bán hết trong thời hạn ba năm.
Ai cũng biết rằng, nếu hoạt động kinh
doanh bằng vốn tự có thì chi phí sử dụng vốn thấp, có thể bằng 0 và khi
đó, thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập DN sẽ cao hơn. Song, xét về hiệu
quả đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư có quy mô lớn, việc sử dụng
100% vốn tự có không phải là tối ưu. Hơn nữa, để tạo điều kiện thuận lợi
cho công dân thành lập DN, tham gia thị trường, quy định như đã trích
dẫn trên của Luật DN là hoàn toàn hợp lý. Do đó, nếu trong thời hạn của
cam kết góp vốn đối với Cty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở
lên và trong thời hạn ba năm để chào bán các cổ phần được quyền chào
bán của Cty cổ phần, Cty phải huy động vốn từ ngân hàng hoặc các đối
tượng khác phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì tiền trả lãi
đối với khoản vay này phải được thừa nhận vào chi phí đầu tư, kinh
doanh. Với những Cty cổ phần được thành lập để thực hiện các dự án có
quy mô lớn, việc huy động vốn từ các ngân hàng cho 80% còn lại là tất
yếu khách quan. Chẳng hạn, một Cty cổ phần đầu tư xây dựng một nhà máy
xi măng với tổng đầu tư 500 tỷ đồng, các cổ đông sáng lập phải góp đủ
20% tức là bằng 100 tỷ đồng, 400 tỷ đồng còn lại phải được chào bán
trong thời hạn ba năm. Song, việc xây dựng nhà máy không thể kéo dài tới
ba năm, cho nên trong 1 đến 2 năm đầu, Cty phải vay đủ 400 tỷ để hoàn
thành công trình. Sau đó, sẽ chào bán số cổ phần còn lại để trả nợ tiền
vay. Trong trường hợp này, lãi trả tiền vay cho khoản 400 tỷ nêu trên
phải được thừa nhận và được “vốn hóa” thành giá trị tài sản cố định của
nhà máy.
Từ phân tích trên, có thể kết luận rằng,
quy định loại trừ các khoản lãi tiền vay trong trường hợp “Các khoản chi
trả lãi tiền vay tương ứng với phần vốn điều lệ đã đăng ký còn thiếu kể
cả trường hợp cơ sở kinh doanh đã đi vào sản xuất kinh doanh” là mâu
thuẫn với quy định của Luật DN.
Nếu được, xin đề nghị Bộ Tài chính sửa
đổi, bổ sung nội dung trên như sau: “Các khoản chi trả lãi tiền vay để
góp vốn điều lệ hoặc chi trả lãi tiền vay tương ứng với phần vốn điều lệ
theo tiến độ đã đăng ký đối với các Cty TNHH có từ hai thành viên trở
lên và giá trị các cổ phần chào bán sau thời hạn ba năm đối với các Cty
cổ phần”. Việc sửa đổi, bổ sung như trên là cần thiết khách quan nhằm
khuyến khích việc thành lập doanh nghiêp, nuôi dưỡng nguồn thu và không
nên để một thông tư cấp bộ lại “đá” luật do Quốc hội ban hành
SOURCE: DDDN.COM.VN



3:07 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment