TS. NGUYỄN ĐẠI LAI
Hiện nay, Việt
nam đã có cam kết trong ASEAN (1995), đã ký kết Hiệp định thương mại
Việt nam Hoa kỳ (2001), đã gia nhập WTO (7/11/2006), trong đó cơ sở pháp
lý để Việt nam đưa ra các cam kết trong đàm phán WTO về dịch vụ ngân
hàng là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Đó là một hệ thống
các quy định mang tính đa biên để điều chỉnh các hoạt động thương mại
dịch vụ. Hiệp định này được đàm phán tại vòng đàm phán Uruguay bao gồm
các nghĩa vụ và nguyên tắc cơ bản, các phụ lục của từng chuyên ngành,
các cam kết cụ thể của mỗi nước nhằm mục đích mở cửa thị trường. 29 điều
khoản của GATS được áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ trong đó có
phân ngành dịch vụ ngân hàng. Các điều khoản này quy định các nguyên tắc
mà tất cả các nước phải tuân thủ một cách « đa phương » .
Tại Hiệp định nói trên, dịch vụ ngân hàng được xác
định theo 4 phương thức sau: (i) dịch vụ ngân hàng được cung cấp từ nước
này sang nước khác gọi là “cung cấp qua biên giới”; (ii) người tiêu
dùng hoặc công ty sử dụng dịch vụ ngân hàng ở nước ngoài gọi là “tiêu
dùng ở nước ngoài”; (iii) các tổ chức tín dụng nước ngoài thành lập chi
nhánh hoặc công ty, liên doanh để cung cấp dịch vụ ngân hàng ở một nước
khác gọi là “hiện diện thương mại”; (iv) các cá nhân đi từ một nước sang
một nước khác để cung cấp dịch vụ ngân hàng gọi là “hiện diện thể
nhân”.
Đối xử tối huệ quốc trong dịch vụ ngân hàng là dành
ưu đãi cho một nước này thì phải dành ưu đãi đó cho tất cả các nước
khác, tối huệ quốc có nghĩa là đối xử với tất cả các nước đều như nhau.
Đối xử quốc gia tức là đối xử như nhau giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài và các tổ chức tín dụng trong nước.
Minh bạch hoá: GATS quy định các nước phải công bố
luật và các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, thiết
lập các đầu mối giải đáp các thông tin nằm trong bộ máy của cơ quan
Chính phủ. Các nước phải thông báo tất cả các thay đổi về luật lệ áp
dụng trong phân ngành dịch vụ ngân hàng đã có cam kết cụ thể.
Các quy định trong nước:
Khi có cam kết cụ thể trong dịch vụ ngân hàng, các
nước thành viên phải cam kết rằng các biện pháp có tác động đến dịch vụ
ngân hàng sẽ được áp dụng một cách hợp lý, khách quan và công bằng.
Mỗi thành viên WTO sẽ duy trì, hoặc lập ngay ra khi
có điều kiện những toà án pháp lý, trọng tài hoặc thủ tục Pháp lý đủ
hiệu lực để khi một nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng có quyền lợi bị ảnh
hưởng có yêu cầu, sẽ được xem xét về mặt hành chính nhanh chóng và khi
được xác định là có cơ sở sẽ được điều chỉnh một cách thoả đáng.
Khi có quy định phải đăng ký để cung cấp một dịch vụ
ngân hàng thuộc diện đã có cam kết cụ thể, trong một thời gian hợp lý
sau khi nhận được đơn xin cấp phép được coi là đầy đủ theo luật pháp và
quy định của nước sở tại, cơ quan thẩm quyền của nước thành viên sẽ
thông báo cho người xin phép biết quyết định của mình. Khi người xin cấp
phép có nhu cầu, các cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên sẽ thông
báo không chậm trễ thông tin về hiện trạng của đơn xin phép.
Qui định về thanh toán và chuyển tiền quốc tế:
Khi một nước đã có cam kết mở cửa thị trường cho cạnh
tranh nước ngoài thì thông thường không được áp dụng những hạn chế đối
với việc chuyển tiền thanh toán ra nước ngoài cho các dịch vụ (các giao
dịch vãng lai). Ngoại lệ duy nhất là trong trường hợp khó khăn về cán
cân thanh toán và trong trường hợp này các hạn chế cũng chỉ mang tính
tạm thời và phải có điều kiện.
Các cam kết cụ thể:
Cam kết của từng nước về việc mở cửa thị trường trong
phân ngành dịch vụ ngân hàng là kết quả của các quá trình đàm phán. Các
cuộc đàm phán này phải hướng tới giảm hoặc triệt tiêu các hạn chế đối
với việc mở cửa thị trường. Các cam kết đạt được sẽ mang tính ràng buộc
pháp lý, chỉ có thể sửa đổi hoặc rút lại sau khi đã đàm phán mà các nước
không thực hiện nổi và phải bồi thường nếu đã gây hại cho bên liên quan
đến điều khoản xin rút đó. Danh mục các cam kết sẽ quy định các nội
dung: (i) thời hạn, giới hạn và điều kiện mở cửa thị trường; (ii) điều
kiện và các nội dung yêu cầu về đãi ngộ quốc gia; (iii) lộ trình cụ thể
triển khai các cam kết; (iv) thời hạn các cam kết bắt đầu có hiệu lực.
Về thâm nhập thị trường:
Với nội dung mở cửa thị trường thông qua các phương
thức cung cấp dịch vụ, mỗi nước thành viên sẽ dành cho dịch vụ ngân hàng
hay các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng của bất kỳ nước thành viên nào
khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ với những điều kiện,
điều khoản và những hạn chế đã được thoả thuận và quy định trong danh
mục cam kết cụ thể của nước đó. Khi có cam kết mở của thị trường trong
dịch vụ ngân hàng, trừ khi có những quy định cụ thể khác trong cam kết,
các nước thành viên sẽ không ban hành thêm hay áp dụng các biện pháp
dưới đây dù là ở quy mô hẹp hay trên toàn bộ lãnh thổ:
- Hạn chế về số lượng các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng hoặc yêu cầu phải đáp ứng nhu cầu kinh tế.
- Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch trong dịch vụ ngân hàng theo số lượng hoặc yêu cầu phải đáp ứng các nhu cầu kinh tế.
- Hạn chế về tổng số các hoạt động nghiệp vụ ngân
hàng hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng ở đầu ra tính theo số lượng đơn
vị hay yêu cầu phải đáp ứng các nhu cầu kinh tế.
- Hạn chế về tổng số người được tuyển dụng trong dịch
vụ ngân hàng, hoặc hạn chế về số lượng đối tượng được tuyển dụng đối
với các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng hay yêu cầu phải đáp ứng các nhu
cầu kinh tế.
- Hạn chế về hình thức pháp nhân cụ thể của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng.
- Hạn chế về việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài
đối với các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng (theo tỷ lệ phần trăm đối
với từng cá nhân hoặc tổng đầu tư nước ngoài).
Quy định về áp dụng biện pháp thận trọng trong dịch vụ tài chính ngân hàng:
Tại mục 2 về Quy chế trong nước của phụ lục về dịch
vụ tài chính của (GATS) cho phép một nước thành viên được áp dụng các
biện pháp thận trọng bao gồm các biện pháp bảo hộ các nhà đầu tư, người
gửi tiền, người được bảo hiểm, những người mua dịch vụ tài chính hoặc
những biện pháp nhằm đảm bảo sự ổn định và thống nhất của hệ thống tài
chính. Các biện pháp thận trọng có thể là các biện pháp không tuân thủ
các quy định của GATS, nhưng các nước thành viên không được lợi dụng các
biện pháp thận trọng để lẩn tránh các cam kết và nghĩa vụ theo GATS.
Các biện pháp thận trọng như vậy sẽ phải được xác định và công nhận theo
những điều kiện nhất định. Ngoài ra, mục này cũng quy định các nước
thành viên không có nghĩa vụ công bố các thông tin liên quan tới kinh
doanh hoặc tài khoản của cá nhân hoặc bất kỳ một thông tin mật hoặc
thông tin về tài sản của tổ chức công.
Như vậy, theo quy định của GATS, các nước thành viên
sẽ không đưa vào cam kết các biện pháp thận trọng và có quyền áp dụng
các biện pháp thận trọng trái với các quy định của GATS khi đã có các
cam kết cụ thể về tự do hoá và mở cửa dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, GATS
cũng không quy định cụ thể và chi tiết các biện pháp thận trọng đối với
từng hoạt động và nghiệp vụ ngân hàng. Mỗi nước sẽ căn cứ vào đặc điểm
và hoàn cảnh cụ thể của hệ thống tài chính ngân hàng của nước mình để
xây dựng các biện pháp thận trọng phù hợp sao cho đảm bảo sự dễ hiểu và
sự bình đẳng trong các tiếp cận chung.
Để vận dụng được vào Việt Nam theo đúng lộ trình đã
cam kết, phía Ngân hàng Việt Nam (NHVN) cần phải sớm hoàn thiện danh mục
các biện pháp thận trọng để chủ động hội nhập với cộng đồng tài chính
quốc tế. Với tính thần ấy, tôi có một số đề xuất các giải pháp về biện
pháp thận trọng đối với 2 nhóm vấn đề « nóng nhất » sau đây:
a/ Nhóm vấn đề về chính sách tiền tệ quốc gia :
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các công cụ điều
hành CSTT gián tiếp (nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, tái cấp
vốn…). Để các nghiệp vụ nói trên phù hợp với thông lệ quốc tế, giải pháp
thận trọng quan trọng là NHVN cần sớm có chính sách buộc mọi TCTD phải
luôn luôn có và duy trì một tỷ lệ tài sản có (TSC) đủ an toàn dưới dạng
công cụ tài chính chất lượng cao lưu ký tại NHTW như trái phiếu, tín
phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu công trình có bảo lãnh của cơ quan thẩm
quyền Nhà nước. Các công cụ này chính là điều kiện vật chất cho các TCTD
nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý vốn khả dụng ở mức an toàn cao.
Đồng thời đó cũng là công cụ để phát triển mối quan hệ giữa Thị trường
chứng khoán (TTCK) với Thị trường tiền tệ và để tăng cường sự phối hợp
điều hành đồng bộ giữa các công cụ CSTT;
- Phối hợp chặt chẽ CSTT với chính sách tài khoá. Có
cơ chế giám sát việc phát hành các công cụ nợ của Chính phủ (trái phiếu
và tín phiếu kho bạc) qua NHNN để tạo điều kiện khuyến khích phát triển
các nghiệp vụ thị trường của NHTW trong điều hành tiền tệ. Đồng thời hạn
chế đến chấm dứt việc tự phát hành tín phiếu của NHNN.
- Xác định rõ ràng các mục tiêu điều hành CSTT và cơ
chế truyền tải tác động của CSTT đến mục tiêu CSTT. Về trung hạn, khi mà
năng lực của NHNN VN còn hạn chế và thị trường tiền tệ kém phát triển
thì mục tiêu điều hành hoặc mục tiêu trung gian của CSTT là khối lượng
tiền cung ứng. Về dài hạn, phải chuyển sang cơ chế điều hành tiền tệ dựa
trên lãi suất – Lấy lãi suất giao dịch thực trên thị trường tiền tệ
liên ngân hàng là mục tiêu điều hành hoặc mục tiêu trung gian của CSTT.
Lấy mức lạm phát (CPI) đủ thấp làm mục tiêu cuối cùng của CSTT.
- Nâng cao kỷ luật điều hành cung ứng tiền: Kiên
quyết không tái cấp vốn tạo nguồn để cho vay theo chỉ định của Chính phủ
và để khoanh, giãn, xoá nợ xấu của các NHTM.
- NHNN cần phải kiểm soát toàn bộ các luồng tiền
trong nền kinh tế, đặc biệt các luồng tiền liên quan đến khu vực ngân
sách nhà nước và các định chế tài chính phi ngân hàng.
- Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất thông qua hình
thành lãi suất chủ đạo (lãi suất cho vay cuối cùng của NHNN trên thị
trương liên ngân hàng từng thời kỳ hoặc thời điểm), thông qua đó NHNN có
khả năng tác động và định hướng lãi suất thị trường, khắc phục tình
trạng lãi suất cơ bản chỉ có ý nghĩa hình thức và giá trị tham khảo
không giao dịch như hiện nay. Hình thành đường cong lãi suất chuẩn trên
thị trường tiền tệ. Tự do hoá hoàn toàn lãi suất, loại bỏ dần các hoạt
động tín dụng bằng ngoại tệ, trước hết là triệt tiêu tín dụng ngoại tệ
ngắn hạn và thay thế bằng cơ chế mua đứt, bán đoạn ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối.
- Tăng cường tính linh hoạt của tỷ giá và nới lỏng
biên độ tỷ giá để nâng cao khả năng chống đỡ của hệ thống ngân hàng
trước những cú sốc tỷ giá. Tập trung các nguồn ngoại tệ trong nền kinh
tế vào hệ thống ngân hàng.
- Tổ chức lại hệ thống thị trường tiền tệ, đặc biệt
là thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Nâng cao hiệu quả hoạt động của
thị trường tiền tệ thứ cấp. Tăng số lượng và chủng loại giấy tờ có giá
trên thị trường tiền tệ. Mở rộng quyền tiếp cận thị trường tiền tệ đối
với các Ngân hàng cổ phần nhỏ, các Ngân hàng nước ngoài và các định chế
tài chính phi ngân hàng. Nâng cao sự phối hợp, gắn kết hoạt động thị
trường tiền tệ và các thị trường vốn để giảm thiểu rủi ro thị trường
tiền tệ, nâng cao khả năng chuyển đổi và phòng ngừa rủi ro cho TCTD.
- Kiên trì quan điểm về bảo vệ giá trị sức mua của
đồng tiền Việt Nam và có lộ trình tích cực trong việc chống tình trạng
đô la hoá. Cải thiện cơ cấu nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng
theo hướng tăng tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn. Đây là giải pháp
quan trọng để giảm thiểu rủi ro sai lệch kép trong hệ thống ngân hàng –
rủi ro kỳ hạn và rủi ro ngoại hối.
b/ Nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống thể chế và pháp luật:
- Sửa đổi căn bản Luật NHNN và Luật các TCTD theo
hướng chuyển NHNN thành NHTW thực sự – Nâng cao vị thế độc lập tương đối
của NHNN với Chính phủ để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của CSTT, xác
lập vai trò và quyền tự chủ của NHNN trong xây dựng, điều hành CSTT;
trong tổ chức cấu trúc hệ thống; trong sử dụng nhân lực, tài chính và
trong việc thanh tra, giám sát duy trì sự an toàn hệ thống ngân hàng.
Chức năng chủ yếu của NHNN sẽ là thực hiện đúng chức năng NHTW trong nền
kinh tế thị trường giống như vị thế của NHTW ở hầu hết các nước thành
viên WTO.
- Hạn chế sự chồng chéo giữa các luật, các qui định
về ngân hàng với các luật và qui định khác ở cấp quốc gia và quốc tế.
Mọi hoạt động ngân hàng không phân biệt đối tượng, kể cả các định chế
tài chính phi ngân hàng(các Quĩ tài chính Nhà nước ngoài NSNN, Kho Bạc,
các tổ chức tín dụng hợp tác, các tổ chức hoạt động tín dụng vi mô…)
tiến hành đều phải chịu sự điều chỉnh của các Luật ngân hàng và chịu sự
quản lý an toàn hệ thống của NHNN.
- Sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về ngân hàng
theo hướng mở cửa thị trường tài chính trong nước theo lộ trình hội nhập
đã cam kết quốc tế và từng bước thực hiện các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các qui chế, cơ chế
về hoạt động thị trường tiền tệ nhằm khuyến khích các TCTD cạnh tranh
lành mạnh, mở rộng khả năng huy động vốn và tạo thanh khoản trong việc «
chạy tiếp sức » trên thị trường tài chính.
- Thận trọng phát triển thị trường vốn, tiến tới xúc
tiến tự do hoá tài chính với những chế tài nghiêm ngặt về luân chuyển
vốn ngắn hạn rút ra từ bài học khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực
Châu Á năm 1997.
- Mở rộng đối tượng chịu sự thanh tra giám sát Ngân
hàng và tạo môi trường Pháp lý thuận lợi cho cho các loại Ngân hàng có
sở hữu khác nhau được tiếp cận bình đẳng với mọi chính sách của NHTW với
tư cách là Ngân hàng mẹ của tất cả các Ngân hàng.
Tóm lại: Suy cho cùng, thị trường tài chính trong nền kinh tế thị trường là nơi phản ánh nền kinh tế giá trị so với toàn bộ nền kinh tế vật chất của một quốc gia. Nếu nền kinh tế vật chất được coi là mục tiêu của cuộc sống của con người thì nền kinh tế giá trị không chỉ là phương tiện để “kích hoạt” mà còn là phương tiện để đo toàn bộ qui mô và chất lượng phát triển của nền kinh tế vật chất đó – Là phương tiện để trả lời tổng hợp nhất những câu hỏi lớn của động thái nền kinh tế quốc dân về: cái gì, cho ai, bao nhiêu, ở đâu, mức độ, đẳng cấp nào, thậm chí “bằng phương án sản xuất nào”? Vì vậy, việc vận hành thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng của một đất nước có thể được ví như là vận hành “một nửa” nền kinh tế thị trường của một quốc gia. Trong đó, NHTW của mọi quốc gia phải chịu trách nhiệm lớn nhất và đóng vai trò điều phối chính đối với mọi động thái của « nền kinh tế giá trị ». Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy, việc đầu tư nghiên cứu các giải pháp thận trọng trong hoạt động Tài chính – Ngân hàng trong bối cảnh hội nhập và thực hiện lộ trình các cam kết WTO trong lĩnh vực dịch vụ Ngân tại Việt Nam, cũng như dịch vụ Ngân hàng từ Việt nam qua biên giới, đã và đang là một nhu cầu cấp bách, khách quan vừa mang tính thường trực, vừa mang tính chiến lược của ngành Ngân hàng Việt Nam suốt thời kỳ hậu WTO .!.
0 comments:
Post a Comment