NGUYỄN QUANG A
Từ 15-6-2007 dự thảo Luật thuế thu nhập
cá nhân được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Đây là một luật rất quan trọng,
không chỉ vì nó đụng chạm đến hàng [chục] triệu người, mà cả vì nó có
vai trò hết sức to lớn trong tăng nguồn thu cho ngân sách, nâng cao ý
thức công dân, thúc đẩy dân chủ và phát triển đất nước. Đưa dự thảo ra
lấy ý kiến nhân dân là việc làm đáng hoan nghênh.
Cải cách hệ thống thuế là việc trọng đại.
Hãy điểm lại (kỹ hơn có thể xem J. Kornai “Con đường dẫn tới nền kinh
tế [thị trường] tự do” NXB Văn hóa thông tin [2002, tr. 89-107], NXB Tri
thức 2007, tr. 109-130) vài nguyên tắc cơ bản nên tuân thủ khi cải cách
thuế. Lưu ý có nhiều trường phái khác nhau nêu ra các nguyên tắc khác
nhau. Sau đó chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn dự thảo Luật thuế thu nhập cá
nhân.
I. Vài nguyên tắc cơ bản
Thứ nhất, chỉ có thể nắm được những người “có tóc”,
tức là chỉ có thể thu thuế từ những người mà cơ quan thuế có thể nắm
được thu nhập của họ. Chẳng cơ quan thuế tài ba nào trên thế giới có thể
nắm được “những kẻ trọc đầu”. Và dư luận khá bức xúc về “những kẻ trọc
đầu có thể trốn thuế ấy”, khá bức xúc về tính công bằng của các sắc thuế
và có thể đưa ra những đòi hỏi hay gây khó cho cơ quan dự thảo luật hay
thậm chí có thể cản trở quốc hội thông qua luật. Phải bỏ công sức và
tiền để giải thích, thuyết phục người dân, nhất là đại diện của các tổ
chức được cho là phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân
dân khác nhau (như công đoàn, đoàn thanh niên, hội người cao tuổi, hội
cựu chiến binh, v.v.), các quan chức nhà nước và trước hết là báo giới
để họ thực sự thấu hiểu, tránh gây ra dư luận chống đối do kém hiểu
biết.
Công bằng là gì cũng được các học giả bàn
cãi rất nhiều mà vẫn chưa thể đi đến thống nhất. Bất luận hiểu công
bằng như thế nào, phải làm rõ là, công bằng chỉ là mục tiêu chúng ta
muốn tiến đến (nhưng không bao giờ đạt được). Từ cổ chí kim chưa bao
giờ, và trong tương lai cũng sẽ chẳng bao giờ có sự “công bằng” cả.
Chúng ta chỉ có thể đặt mục tiêu tiến đến sự công bằng hơn (so với hiện
tại). Xét ngược lại có lẽ dễ hiểu hơn. “Sự bất công bằng” đã, đang và sẽ
luôn luôn tồn tại. Đấy là thực tế cần nhận ra và phải chấp nhận. Đừng
lẫn mong ước và thực tế. Mục tiêu là giảm “sự bất công bằng”. Và với cải
cách thuế cũng vậy. Làm cho công chúng và cả các quan chức hiểu được
điều thật đơn giản này không phải dễ. Chúng ta đã quá đề cao, quá nhấn
mạnh đến “sự công bằng”, cách hiểu sai (tức là muốn đạt sự công bằng
tuyệt đối, bất luận hiểu công bằng theo nghĩa nào) về công bằng đã được
người ta tuyên truyền, “nhồi” vào chúng ta qua hàng thế hệ, nó đã ngấm
sâu vào tiềm thức của chúng ta và không dễ gì có thể nhanh chóng dứt bỏ
được. Hàng thập kỷ chúng ta đã từng được rao giảng về “sưu cao”, “thuế
nặng” để gây sự “căm thù” với chế độ cũ, rồi lại được nghe “đóng thuế là
nghĩa vụ thiêng liêng” để xây dựng đất nước, nhưng nhận thức về thuế, ý
thức đóng thuế của người dân và các quan chức ở nước ta còn dài mới đạt
mức ở các nước phát triển. Việc tránh thuế, lách thuế, không muốn đóng
thuế là chuyện quá quen thuộc, dễ hiểu. Phải có thời gian mới ngó hầu
nâng cao được nhận thức về thuế. Không buộc phải đóng thuế, không bị
phạt khi vi phạm thì cũng khó nâng cao nhận thức này. Muốn mọi người “có
tóc” để nắm, thì phải phát triển hạ tầng cơ sở tài chính ngân hàng, hạn
chế dùng tiền mặt, các cá nhân hay hộ kinh doanh có sổ sách kế toán thu
chi rõ ràng, nhận thức của người dân và quan chức phải đúng, v.v. Đấy
là những việc không thể làm được một sớm một chiều. Đợi khi có thể kiểm
soát được thu nhập của tất cả mọi người (một ảo tưởng tai hại) mới đưa
ra thuế thu nhập cá nhân nghe có vẻ hợp lý, song hoàn toàn sai và không
đánh thuế thì chẳng bao giờ có thông tin như thế để mà kiểm soát. Hiểu
được thế chúng ta sẽ dễ thông cảm với những vấn đề mà các nhà cải cách
thuế đối mặt. Đừng đặt ra cho họ những mục tiêu ảo tưởng không bao giờ
đạt được. Ngoài mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách, như thế thuế thu
nhập cá nhân cũng góp phần nâng cao nhận thức; tạo ra nhiều người “có
tóc”; tạo ý thức công dân; cho người dân cảm nhận có thể sờ mó được về
làm chủ đất nước, về quân đội, công an và quan chức nhà nước là do mình
nuôi; hay thuế là giá mà mình phải trả cho các dịch vụ do nhà nước cung
cấp mà người dân vẫn coi là nghiễm nhiên và chỉ nhận ra tầm quan trọng
của chúng khi thiếu chúng (khi nhà nước không mạnh nên sinh ra loạn lạc,
cướp bóc chẳng hạn); tăng cường dân chủ. Nhìn từ góc độ này dự thảo
luật thuế thu nhập cá nhân là khá tốt. Hãy ủng hộ nó và đừng đưa ra
những đòi hỏi quá đáng mà (chẳng nước nào) có thể thực hiện được, nói
chi đến cơ quan thuế Việt Nam! Càng nên tránh những lời lẽ mang tính mị
dân.
Thứ hai, hệ thống thuế càng trung lập càng tốt.
Thuế đừng thưởng cũng đừng phạt bất cứ ai. Phải tách bạch giữa thuế
(bên thu) và các chính sách xã hội (bên chi). Các khoản ưu đãi, miễn
giảm cho các đối tượng này, cho các loại thu nhập kia, v.v., là các
khoản “trợ cấp” được lén đưa qua thuế, hay các khoản “thuế âm”. Các
khoản trợ cấp xã hội nên được tách bạch và công khai ở “bên chi” của
ngân sách, không nên vì áp lực của các nhóm lợi ích mà đi lẫn lộn. Nếu
sự mập mờ hay sự viện dẫn đến những “giá trị cao thượng” lại vì những ý
đồ mị dân, thì còn tai hại hơn. Sự trợ cấp “ngầm này” chỉ làm cho luật
thuế phức tạp, rắm rối, chi phí xã hội cho việc đóng và thu thuế tăng
lên. Trợ cấp là trợ cấp, thuế là thuế, hãy tách bạch hai thứ này. Tính
trung lập của thuế làm cho hệ thống thuế đơn giản, nhất quán, dễ thực
thi, không gây méo mó cho hệ thống giá; nó cũng làm cho người dân hiểu
đúng về thuế về trợ cấp.
Thứ ba, thuế đừng tạo ra những khuyến khích ngược, cản trở sự tăng trưởng của năng suất và đầu tư.
Tăng năng suất, tăng đầu tư là các nhân tố cốt lõi của sự phát triển;
mà không có phát triển thì không có tự do, chỉ có sự bất công bằng. Nếu
thuế có ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng năng suất và đầu tư thì phải xem
xét lại. Các mức khởi điểm (hay mốc) trong biểu thuế mà thấp, thuế suất
cao, cách đánh lũy tiến có thể gây ra những khuyến khích ngược đối với
năng suất, có thể không khuyến khích tinh thần kinh doanh, có thể làm
xói mòn sự hăng say làm giàu. Đánh thuế lãi tiết kiệm làm giảm tăng
trưởng đầu tư. Tiền tiết kiệm nếu người dân để ở nhà, không gửi vào các
ngân hàng hay tổ chức tín dụng thì phần tiền đó không tạo ra khoản đầu
tư, đánh thuế lãi tiết kiệm làm tăng lãi suất nên cũng có thể làm giảm
đầu tư (chắc chắn làm giảm tăng trưởng đầu tư). Đánh thuế cao vào thu
nhập đầu tư vốn cũng tạo ra phản khuyến khích như vậy.
Thứ tư, là tính hiệu quả, tính dễ thực thi của hệ thống thuế.
Thuế càng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực thi, nhất quán, càng ít ngoại lệ
(miễn, giảm, v.v.) thì chi phí thu thuế, chi phí nộp thuế càng nhỏ. Nhất
là ở Việt Nam, khi nhận thức về thuế của người dân và các quan chức còn
thấp, hệ thống càng rắc rối, phức tạp thì càng dễ lách thuế và, quan
trọng hơn nhiều, càng tạo cơ hội cho các quan chức thuế vụ “hạch sách”
người dân, tạo thêm cơ hội cho tham nhũng, hủy hoại tính liêm chính cần
được xây dựng, làm xói mòn lòng tin của người dân vào nhà nước. Đây là
một tiêu chí hết sức quan trọng, nhất là lúc ban đầu. Nếu hệ thống phức
tạp, không nhất quán, nhiều ngoại lệ và người dân có khuyến khích để tìm
mọi cách lách thuế (họ không phạm tội) và nhất là khi đội ngũ viên chức
thuế vụ hư hỏng, thì hệ thống sẽ kích động một vòng luẩn quẩn rất khó
khắc phục. Khởi đầu nên đơn giản, nhất quán, làm sao cho thật dễ hiểu,
loại bỏ những sự mập mờ, thuế dễ thực thi, nhân viên thuế vụ không thể
tùy tiện quyết định (vì ai cũng hiểu và quá rõ ràng); khi đó hệ thống sẽ
khởi động một vòng phản hồi dương lành mạnh: ý thức nộp thuế tăng, tính
liêm chính tăng, nhà nước thu được nhiều và có thể tăng lương cho viên
chức, hệ thống hành chính nhà nước hiệu quả hơn, dân tin vào nhà nước
hơn, việc làm ăn ít tốn phí hơn và có lời hơn, ý thức nộp thuế cao hơn
và v.v. Đừng bao giờ quên những chi phí (thời gian, giấy tờ, công sức,
giải quyết khiếu nại,…) của cơ quan thuế vụ, của những người đóng thuế.
Tổng chi phí này là chi phí của toàn xã hội, nó càng nhỏ càng tốt.
Cuối cùng, thuế là một vấn đề phức tạp, khó có thể thỏa mãn đồng thời các yêu cầu,
nên cần cân nhắc kỹ lưỡng giữa những thỏa hiệp. Có rất nhiều tiêu chí
không thể cùng được thỏa mãn, không có giải pháp tối ưu. Trong lĩnh vực
xã hội có rất nhiều vấn đề không có giải pháp tối ưu (được mặt này hỏng
mặt kia). Nhưng luôn có các giải pháp, chúng ta có thể lựa chọn giữa các
giải pháp này. May là như vậy, nếu có giải pháp tối ưu, thì có thể tự
động hóa được và vai trò của con người lãnh đạo, của con người ra quyết
định sẽ mất đi, một viễn cảnh thật kinh hoàng. Chính vì thế nên để tự do
thảo luận, lắng nghe những ý kiến nhiều chiều, cân nhắc cẩn trọng và
cuối cùng những người có quyền quyết định (thí dụ quốc hội) phải ra
quyết định chính trị của mình; đấy là cách làm của một nền dân chủ đại
diện.
II. Về Dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân
Dưới đây sẽ phân tích và góp ý cho dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân được đưa ra lấy ý kiến nhân dân từ ngày 15-6-2007.
Cấu trúc của dự thảo hợp lý. Phân ra loại
thuế thu nhập cá nhân lũy tiến đánh vào các khoản thu nhập có từ sản
xuất, kinh doanh, tiền lương, tiền công và loại thuế thu nhập cá nhân từ
các nguồn khác theo biểu thuế toàn phần. Dự luật phân biệt giữa người
cư trú và người không cư trú. Nhìn chung cấu trúc dự luật theo thông lệ
quốc tế. Dự thảo lần này khá tốt, có thể dùng làm cơ sở tốt để thảo luận
rộng rãi và cân nhắc trước khi quốc hội thông qua. Dưới đây là phân
tích theo các nguyên tắc nêu ở phần I, và một số góp ý khác.
1. Cơ sở thuế hay diện chịu thuế và nắm kẻ “có tóc”.
Những người phải nộp thuế thu nhập cá
nhân là tất cả các cá nhân cư trú và không cư trú có thu nhập chịu thuế.
Nói cách khác cơ sở thuế, diện người đóng thuế tăng đáng kể, bao gồm
tất cả các đối tượng điều chỉnh của pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao hiện nay (khoảng hơn 200 ngàn người), các cá nhân
hay hộ kinh doanh chịu sự điều chỉnh của các quy định về thuế thu nhập
doanh nghiệp (khoảng 800.000 hộ có đăng ký kinh doanh [đóng thuế thu
nhập doanh nghiệp] và hơn 1,7 triệu hộ kinh doanh không có đăng ký [đóng
thuế khoán]), tất cả những cá nhân khác có thu nhập chịu thuế. Nếu số
người đóng thuế thu nhập cá nhân vẫn chỉ là khoảng 2,9 triệu người này,
những người đã được biết là người “có tóc”, thì thật khó lý giải cho
việc đưa ra sắc thuế mới. Như thế có thể kỳ vọng số người nộp thuế sẽ
tăng lên đáng kể, sẽ có thêm nhiều người “có tóc”. Nhiều người cho rằng,
mở rộng cơ sở thuế thì “người nghèo” sẽ nộp nhiều hơn, bởi vì rất nhiều
kẻ giàu (tham nhũng, trốn lậu thuế, v.v.) lại không đóng thuế; hay hạ
mức khởi điểm chịu thuế sẽ làm “mất lòng dân”; hay đưa ra sắc thuế mới
không phải để tạo nguồn thu cho ngân sách mà để đảm bảo “công bằng xã
hội” v.v và v.v. Tôi nghĩ những ý kiến đó là sai hoàn toàn. Phải thật
bình tĩnh với những áp lực hay dư luận như vậy. Những kẻ giàu có mà vẫn
“trọc đầu” (quan tham, kẻ buôn bán lậu, kẻ trốn thuế, v.v.) sẽ không bao
giờ mọc tóc để cơ quan thuế có thể nắm, nếu họ không thuộc diện phải
nộp thuế một cách chính thức. Việc hạ mức khởi điểm để bắt bọn chúng
cũng phải nộp, cũng phải khai một cách chính thống, thì dần dần (không
nhanh được đâu!) mới có cơ sở, mới có dữ liệu về thu nhập của chúng, và
dư luận, nhân dân, cơ quan thuế, cơ quan phòng chống tham nhũng mới có
thể đối sánh tài sản và thu nhập của chúng và bắt tóc của chúng lộ ra.
Ai là những người không bị luật thuế này
đụng đến? Tuyệt đại đa số nông dân và ngư dân, người ở vùng cao vùng sâu
(nơi cơ sở hạ tầng tài chính ngân hàng chưa có, chi tiêu toàn dùng tiền
mặt) thu nhập của họ có trời cũng chẳng biết được. Và khoản 11 của Điều
5 về các khoản thu nhập không chịu thuế (Thu nhập từ sản xuất nông
nghiệp, từ trồng rừng của chủ hộ nông dân, kể cả chủ hộ nông, lâm
trường viên trong hạn mức diện tích đất nông nghiệp được giao theo quy
định của pháp luật về đất đai; thu nhập từ làm muối của chủ hộ diêm dân;
thu nhập từ đánh bắt hải sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc
chỉ qua sơ chế thông thường của chủ hộ ngư dân) đã loại họ ra khỏi
diện nộp thuế (trừ các khoản thu nhập khác như đầu tư, chuyển nhượng,
quà tặng có thể nắm được). Một quy định rất đúng với hoàn cảnh hiện nay
của ta. Như thế, hơn 50 triệu người được loại trừ ra khỏi diện chịu
thuế. Tuyệt đại bộ phận người nghèo không bị ảnh hưởng! Chẳng có lý do
xác đáng nào để kêu ca luật thuế thu nhập cá nhân sẽ ảnh hưởng xấu đến
người nghèo ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biển!
Trong số những người thuộc diện phải đóng
thuế thu nhập cá nhân (sau khi đã trừ hơn 50 triệu người nêu trên) đại
loại có thể phân thành 2 loại nhóm:
a) Nhóm thứ nhất gồm những người hưởng
lương (từ các doanh nghiệp, các tổ chức, cơ quan nhà nước, các lực lượng
vũ trang). Đây là những người mà nhà nước có thông tin về thu nhập
chính thức của họ, và thuế có thể được thu ngay từ nguồn, tức là từ
những người sử dụng lao động chi trả thu nhập cho họ (giống như với
những người có thu nhập cao nộp thuế hiện nay).
b) Nhóm thứ hai là những người làm nghề
tự do, cá nhân hay hộ kinh doanh. Nhóm này lại có thể phân làm hai nhóm
nhỏ: b1) gồm những cá nhân hay hộ có đăng ký kinh doanh và có sổ sách kế
toán, có xuất hóa đơn, tương tự như công ty tư nhân [chịu trách nhiệm
vô hạn] cũ, loại này cơ quan thuế cũng có cơ sở nào đó để nắm, tuy họ
cũng là những người tự khai thuế; b2) những người không có đăng ký kinh
doanh (loại này sẽ phải tự khai và khó nắm hơn vì không có sổ sách kế
toán). Mục tiêu là làm sao số những người thuộc nhóm b1 tăng lên và b2
giảm đi, vì như thế hiểu biết của họ về quản lý tài chính (tức là hiểu
biết của cả quốc gia) sẽ tăng lên và góp phần vào tăng vị thế cạnh tranh
của cả nước, vì khi đó cơ quan thuế có thể thu nhiều hơn do có thông
tin chính xác hơn, vì như thế số người trốn, lách thuế sẽ có thể giảm
đi, v.v.
Đối với những người thuộc nhóm a) và
không phải viên chức nhà nước, tình hình tương đối dễ. Những kẻ “có tóc
dày”, các quan tham, nằm trong số những người hưởng lương và tiền công
từ ngân sách (nếu vì lý do nào đó, thí dụ do khấu trừ gia cảnh trước) mà
không phải khai báo thuế, thì họ thực sự trở thành người có cái đầu
trơn lất. Nếu thế thì những lo ngại của người dân về “bất công xã hội”
là rất có lý; chắc nhân dân sẽ không lo những người giàu đóng thuế
nghiêm túc tạo ra “bất công bằng xã hội”. Như thế phải làm sao để tất cả
các quan chức đều thuộc diện chịu thuế, vì thu nhập chính thức (tiền
lương) của họ cơ quan thuế nắm được, họ là những người “có tóc”, tuy đại
bộ phận có tóc “thưa”. Nếu làm không khéo thì “bọn có tóc dày” sẽ lủi
mất, chắc chắn chúng sẽ tìm cách lủi, song nếu chính thức phải nộp thuế,
phải khai thuế, thì, như đã phân tích ở trên, “tóc dày” của chúng sẽ
dần lộ ra. Có thể nói dự thảo luật tuân thủ khá tốt nguyên tắc chỉ có
thể thu từ “người có tóc”, với điều kiện như phân tích trên đây (xem
thêm mục 5 dưới đây).
2. Tính trung lập của thuế thu nhập cá nhân
Theo nguyên tắc này thì dự thảo chưa thật
tốt, Điều 5 (trừ các khoản 11, 13, 14) và Điều 6. Tuy nhiên xét về khía
cạnh xã hội và chính trị, về nhận thức của người dân và quan chức, thì
có thể hiểu được trong giai đoạn trước mắt, về lâu về dài nên cân nhắc
lại. Có thể nên tăng trợ cấp, nhưng thuế là thuế và trợ cấp là trợ cấp.
Đừng lẫn lộn và làm khó cho chính hệ thống thuế, và cho nhà nước, cho
người dân xét về tầm dài hạn. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, khó và nên
tìm cách giải thích để cho người dân hiểu, nhất là cho các phương tiện
truyền thông đại chúng thấu hiểu và có ứng xử thích hợp (cấm đoán là
điều tối kỵ, tăng cường tự do ngôn luận, tạo điều kiện để có tranh luận
lành mạnh là thượng sách). Mặt khác có một khoản rất nên miễn thuế lại
không được dự thảo đề cập. Đó là các khoản đóng góp cho các tổ chức từ
thiện, các tổ chức phi vụ lợi (giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nghệ thuật,
v.v.). Tôi sẽ phân tích điều này trong một mục riêng, mục 6, dưới đây.
3. Đừng tạo ra khuyến khích ngược cản trở sự tăng trưởng của năng suất và đầu tư.
Vấn đề này liên quan đến cách đánh thuế
lũy tiến (mức cao nhất 35% không phải là cao quá so với các nước OECD;
nhưng cao hơn Hàn Quốc và Mexico [dưới 20%], Singapore [20%], New
Zeland, Ireland, Nhật Bản, Úc, Iceland, Mỹ, Thụy Sỹ [dưới 30%]; Canada
và Vương quốc Anh dưới [35%]; thấp hơn hay bằng mức của 19 nước còn lại
mà một số nước này đang xem xét lại để hạ xuống).
Tôi kiến nghị nên bỏ mức 5, 6, 7, tức là
để nguyên các mức 1, 2, 3 và 4 (tức là thuế suất tối đa 20%). Nếu muốn
xây dựng một xã hội trung lưu, giàu có, thì không nên đánh thuế quá cao
đối với người giàu, người có tài. Thuế suất tối đa thấp là một động lực,
một khuyến khích rất mạnh để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, tinh thần
kinh doanh, để thực hiện “dân giàu nước mạnh”. Những lập luận, hô hào
“phải đánh thuế nặng” những người giàu, người có thu nhập cao để “có
công bằng xã hội” có vẻ rất “được lòng dân” nhưng xét kỹ có thể có hậu
quả khôn lường, nó tạo ra sự sợ hãi chính sách cào bằng, bình quân chủ
nghĩa, tước đoạt của người này cho người khác, v.v., đã gây tác hại ghê
gớm một thời có thể quay lại, hay chỉ nghĩ đến nó đã làm nhụt chí kinh
doanh của người dân; xét cho cùng nó chắc chắn có hại cho cả những người
nghèo nữa. Tôi nghĩ nhân dân “bất bình” và lo về “sự bất công bằng xã
hội” do những kẻ tham nhũng, buôn lậu mà không phải đóng thuế gây ra,
chứ không phải vì những người đóng thuế nghiêm túc là những người giàu
hơn họ. Vấn đề này phức tạp và còn gây tranh cãi, theo tôi khuyến khích
tranh luận, để cho những ý kiến đối chọi nhau, thực hiện tự do ngôn luận
thực sự, tự do tư tưởng thực sự, chúng ta sẽ tiến dần đến chân lý hơn.
Không đánh thuế lãi tiền gửi tiết kiệm,
lãi trái phiếu, tín phiếu chính phủ, kiều hối (trong giai đoạn đầu) là
quy định khôn ngoan nhìn từ khía cạnh này.
Nên xem xét hạ thuế suất (25%) đối với
thu nhập từ chuyển nhượng vốn và chuyển nhượng bất động sản (thí dụ
xuống 10% hay 15%). Mức 5% với thu nhập đầu tư vốn là vừa phải.
4. Tính hiệu quả
Cần có những nghiên cứu thấu đáo hơn,
thảo luận chi tiết hơn về tính đơn giản hay phức tạp, rắc rối của dự
thảo. Chí ít nếu những người soạn thảo và quốc hội lưu ý thích đáng đến
vấn đề này cũng đã là một bước tiến đáng kể. Xem cả mục 5 dưới đây.
5. Khấu trừ gia cảnh
Đây là vấn đề rất nhạy cảm và khó. Theo
tôi mức khấu trừ cụ thể, thậm chí mức trong biểu thuế, để cho hợp với
từng thời kỳ, nên có cơ chế để thay đổi linh hoạt hơn không nên quá cứng
nhắc (thí dụ, cho phép Chính phủ hay Thường vụ quốc hội điều chỉnh các
con số). Trước mắt tôi nghĩ mức giảm trừ gia cảnh nêu ở Điều 18 là phù
hợp.
Tuy nhiên, tôi kiến nghị bỏ từ “trước khi
tính thuế” ở khoản 1 của điều này. Theo tôi tất cả mọi người “có tóc”
[thuộc nhóm a) nêu trên] hãy cứ nộp thuế theo biểu thuế, không trừ gì
cả. Những người thuộc nhóm b) hàng tháng cũng phải tạm nộp theo cách nào
đó (trên cơ sở họ tự khai, nếu không tự khai thì cơ quan thuế áp sẵn).
Theo tôi nên thận trọng và tránh giải thích rằng các hộ kinh doanh, do
được chiết trừ gia cảnh nên sẽ bớt phải đóng thuế so với hiện nay. Vì
điều này, theo tôi, có thể không phải vậy, và như thế sẽ có thể mang
tiếng nói dối. Khoản “giảm trừ gia cảnh” mỗi người chịu thuế, sau khi tự
quyết định và thông báo (đừng bắt họ xin phép, hay phải có sự chấp
thuận, hãy kiểm tra sau), sẽ tự tính lấy vào cuối kỳ nộp thuế (đầu năm
sau), và đòi cơ quan thuế hoàn trả lại khoản đó và những khoản nộp thừa
khác hay cấp chứng từ để trừ vào khoản sẽ phải (tạm) nộp trong năm tới
(có thể tính cả lãi cho các khoản này). Làm như thế sẽ có những điểm lợi
(+) và bất lợi (-) sau:
+ Không “kẻ có tóc dày” nhưng làm ra vẻ
“có tóc thưa” có thể che mãi mớ tóc dày của chúng. Riêng việc này có thể
có tác động ngăn chặn to lớn trong việc chống tham nhũng, thực sự góp
phần mang lại “công bằng xã hội”. Xem phân tích tại điểm 1 ở trên.
+ Tất cả mọi người đều có khuyến khích để
khai, để cung cấp thông tin. Không có thông tin như vậy hay không phải
cung cấp thông tin (vì đã giảm trước khi tính) thì khó có thể nâng cao
nhận thức của người dân (xem phân tích ở nguyên tắc 1, phần I). Nguồn
thông tin đó là một tài sản vô giá cho ngành thuế, cho đất nước.
+ Việc thực thi đơn giản hơn, ít tạo cơ hội cho các quan chức thuế vụ vòi vĩnh
+ Tất cả mọi người (ít nhất là 5-6 triệu
người) có khuyến khích để lưu ý đến quản lý tài chính của bản thân mình;
phải học, tìm hiểu và thực hành vì lợi ích của chính mình; như thế sẽ
có kết quả hơn nhiều trường đào tạo; hiểu biết cao hơn góp phần hết sức
quan trọng vào hiệu quả của công việc gia đình, kinh doanh của họ, tức
là của quốc gia.
+ Tôi kiến nghị cấp mã số thuế cho tất cả
mọi người (kể từ khi sinh ra); dùng mã số đó như số chứng minh thư cho
những người được cấp chứng minh thư; cũng số đó là số để tiếp cận đến
các dịch vụ y tế (số bảo hiểm y tế) hay phúc lợi xã hội khác (hưu bổng,
trợ cấp, học bổng, trợ cấp lãi suất vay học nghề, theo dõi tín dụng học
sinh, sinh viên, v.v). Mã số đó gắn với mỗi người suốt đời. Nếu làm thế
sẽ có cơ sở để tích hợp dễ dàng các cơ sở dữ liệu về cá nhân (phục vụ
cho thu thuế, minh bạch tài sản, các dịch vụ xã hội khác, cho theo dõi
các khoản tín dụng ưu đãi để học nghề hay tín dụng sinh viên). Công nghệ
ngày nay cho phép thực hiện các hệ thống tích hợp như thế với giá phải
chăng. Mã số thuế này tạo điều kiện quản lý hữu hiệu những vấn đề thuế
của tất cả mọi người dân (tất nhiên lúc đầu chỉ là những người thuộc
diện chịu thuế), kể cả đơn giản hóa việc quản lý chiết trừ gia cảnh,
minh bạch hóa tài sản, góp phần đắc lực chống tham nhũng.
- Dữ liệu phải xử lý sẽ nhiều hơn (song
công nghệ cho phép thực hiện không khó khăn mấy mà lại tạo tài sản thông
tin cho quốc gia).
- Số người thuộc diện phải khai sẽ nhiều
lên, dễ sinh ra sai sót (nên phải có kiểm tra chéo, thí dụ buộc phải
khai qua mạng 2 lần), làm tăng chi phí.
- Ban đầu sẽ có thể có rất nhiều người
chống (nhất là những kẻ “tóc dày” hay các nhóm lợi ích khác), nên phải
giải thích cho rõ, tốn thêm chi phí.
- Cấp mã số thuế = số chứng minh thư = số
bảo hiểm y tế = số bảo hiểm xã hội = địa chỉ điện tử duy nhất suốt đời
sẽ kéo theo việc phối hợp với các cơ quan khác (công an, Bảo hiểm ý tế,
bảo hiểm xã hội, v.v.) sẽ làm tăng chi phí (nhưng so với hiệu quả thì
rất đáng, và chỉ ở mức Luật và ở mức Quốc hội mới có thể buộc các cơ
quan chính phủ phải hợp tác với nhau thực hiện).
- Khối lượng phải xử lý các khoản thoái
thu sẽ tập trung vào một thời gian (thường là cuối hay đầu năm sau) có
thể làm cho công việc xử lý tăng gấp bội (nên thủ tục phải thật đơn
giản, rõ ràng, dễ hiểu để tránh sai sót, khiếu nại, v.v.)
6. Miễn thuế thu nhập cá nhân cho các khoản đóng góp cho các tổ chức từ thiện, các tổ chức phi vụ lợi.
Đây là một công cụ chính sách tạo khuyến
khích to lớn cho việc “xã hội hóa” đích thực, cho việc “nhà nước và nhân
dân cùng làm” đích thực góp phần giải quyết các vấn đề chăm sóc sức
khỏe, giáo dục, đào tạo, phòng chống tệ nạn xã hội, cai nghiện, phát
triển khoa học và nghệ thuật, v.v. Khi những người giàu đóng góp tiền
bạc cho các tổ chức phi vụ lợi, từ thiện như vậy, thì khoản đóng góp đó
nên được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế của họ. Nói cách khác, người có
thu nhập bỏ ra phần lớn, nhà nước bỏ ra một phần (tức là, phần thuế lẽ
ra nhà nước có thể thu được trên phần đóng góp đó [với tỷ lệ không bao
giờ quá mức thuế suất tối đa]). Để cho người đóng góp chính được “hưởng
danh”. Hầu hết các nước đều có chính sách rất khôn ngoan này. Nếu có
chính sách này sẽ có thể huy động được rất nhiều nguồn lực cho khu vực
xã hội (các tổ chức phi vụ lợi, từ thiện, v.v những tổ chức làm công
việc này hiệu quả hơn nhà nước hay khu vực tư nhân) để giải quyết các
vấn đề rất bức xúc hay để tài trợ cho phát triển khoa học nghệ thuật.
Tôi tha thiết kiến nghị đưa khoản miễn trừ này vào luật. Hãy suy ngẫm
xem Bill Gates, Warren Buffett và các nhà tỷ phú khác góp phần to lớn
thế nào vào giải quyết các vấn đề nan giải và phát triển khoa học và
nghệ thuật. Có chính sách khôn khéo, tôi tin ở Việt Nam cũng có thể huy
động được rất nhiều tiền cho công việc như vậy, đỡ gánh nặng tài chính
và quản lý của nhà nước rất nhiều.
7. Biểu thuế toàn phần và thuế thu nhập cá nhân với người không cư trú.
Trước mắt tôi chưa có ý kiến thêm về những vấn đề này.
Tóm lại, dự thảo luật thuế thu nhập cá
nhân đưa ra lấy ý kiến nhân dân là một bản dự thảo khá tốt, tạo cơ sở,
khung khổ tốt cho việc thảo luận, góp ý. Các chuyên gia nên trình bày
hết các khía cạnh, những mặt hay mặt dở, đề xuất những kiến nghị xây
dựng (không chỉ phê phán suông, mà phải có cơ sở, và nếu có cơ sở thì dễ
đưa ra đề xuất và kiến nghị). Có một luật thuế thu nhập cá nhân tốt là
một sự đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước; hấp tấp, cẩu thả,
hay không cẩn trọng đưa ra luật tồi có thể gây tác hại khôn lường. Tất
cả những phân tích như vậy, tất cả những khả năng lựa chọn phải được
trình bày một cách khách quan cho cơ quan lập pháp. Các đại biểu quốc
hội sẽ phải lấy quyết định chính trị của mình trong các lựa chọn đã được
phân tích, cân nhắc kỹ này.
SOURCE: IBLA.ORG.VN



2:59 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment