NGUYỄN THỊ THỦY
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua
bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm
1. Khái niệm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm[1].
Còn bảo hiểm tài sản là loại hình bảo
hiểm, theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiểm của bên
mua bảo hiểm và cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi tài sản mua
bảo hiểm gặp những rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất.
Với những khái niệm trên, hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm để đổi lại họ được
quyền thu những khoản phí nhất định từ người mua bảo hiểm. Khi doanh
nghiệp bảo hiểm thu phí của bên mua bảo hiểm cũng đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải gánh chịu một mức trách nhiệm đối với
người được bảo hiểm tương ứng mức phí bảo hiểm đã thu. Đây là yếu tố để
chứng minh rằng, quan hệ kinh doanh bảo hiểm là quan hệ xã hội mang tính
chất song vụ, quyền lợi bên này cũng chính là nghĩa vụ của bên kia và
ngược lại. Tham gia vào quan hệ bảo hiểm, các bên nhằm mục đích hợp tác
với nhau để đạt được những lợi ích nhất định. Để thiết lập nên quan hệ
mang tính hợp tác, tương trợ này, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm phải tuân thủ cam kết: không được cố ý thực hiện những hành vi có
thể gây thiệt hại cho phía đối tác. Như vậy, những hành vi lừa dối nhằm
gây thiệt hại cho phía bên kia để đạt được những quyền lợi tài chính
nhất định trong quan hệ bảo hiểm, chúng ta có thể coi là việc kiếm lời
bất hợp pháp.
Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi
tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết
khiếu nại bảo hiểm”. Như vậy, nói đến trục lợi bảo hiểm là phải nói đến
hành vi của tổ chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý nhằm thu lợi
bất chính. Nhận dạng hành vi trục lợi bảo hiểm phải chú trọng đến việc
tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ bảo hiểm (bao gồm bồi thường bảo
hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm) nhằm thu lợi bất
chính cho mình. Tổ chức, cá nhân được đề cập trong khái niệm trục lợi
bảo hiểm trên đây có thể là bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm hoặc
doanh nghiệp bảo hiểm, thậm chí có thể là hành vi gian lận trong bảo
hiểm của đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Cho dù là tổ
chức, cá nhân nào đi chăng nữa, nhưng nếu muốn thực hiện được hành vi
trục lợi bảo hiểm, thì các chủ thể này cũng phải tham gia vào quan hệ
kinh doanh bảo hiểm.
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định: Trục lợi bảo hiểm là hành vi kiếm lời bất hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
Tương tự như vậy, trục lợi bảo hiểm tài sản là việc các bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản nhằm thực
hiện các hành vi lừa dối để được hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra
mình không được hưởng hoặc hưởng lợi lớn hơn quyền lợi tài chính mà mình
được hưởng.
2. Quy định của pháp luật
Quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong quan hệ pháp luật bảo hiểm
Cơ sở hình thành nên quy định pháp luật
về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ thương mại nói chung đó là,
tất cả các giao dịch kinh doanh cần thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn
nhau. Trong thực tế, điều đó có nghĩa là các bên khi tham gia vào các
hoạt động kinh doanh không được phép có bất kỳ hành vi gian lận hay mưu
toan lừa đảo nào. Điều này không có nghĩa rằng, người bán phải có nghĩa
vụ chỉ ra các khiếm khuyết đối với sản phẩm mà họ bán ra, tuy nhiên, khi
giới thiệu, thông báo hoặc trả lời câu hỏi, người bán hàng phải đưa ra
những câu trả lời trung thực.
Trong quan hệ bảo hiểm tài sản, để đạt
được lợi ích của mình, các bên tham gia cần phải tuân thủ triệt để
nguyên tắc này. Sở dĩ chúng ta khẳng định như vậy, bởi vì, sản phẩm của
hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính khá đặc thù, là sản phẩm mang
tính trừu tượng thể hiện ở việc tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên
đều hoàn toàn không thể biết trước được sản phẩm mà hai bên thỏa thuận
mua bán có hình thành trong tương lai hay không. Tức là, doanh nghiệp
bảo hiểm thì không thể biết được trách nhiệm của mình đối với sản phẩm
mình bán ra có phát sinh hay không[2],
ngược lại, bên được bảo hiểm cũng không thể biết được tài sản mình mua
bảo hiểm có thể bị tổn thất hay không. Như vậy, khác với các giao dịch
mua bán thông thường có đối tượng mua bán là hàng hóa, các bên có thể
nhìn thấy được hàng hóa mà mình tham gia mua bán, trong bảo hiểm tài
sản, yếu tố này sẽ được hình thành trong tương lai, tuy nhiên có thể
hình thành hoặc không, phụ thuộc vào việc rủi ro có xảy ra hay không và
có trong phạm vi bảo hiểm mà hai bên cam kết hay không.
Ngoài ra, còn phải kể đến một đặc thù:
hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động mang tính nghiệp vụ cao, kỹ
thuật bảo hiểm tài sản mang tính trừu tượng và khó hiểu. Các quy tắc,
điều khoản bảo hiểm chứa đựng những thuật ngữ chuyên ngành thường khó
hiểu, nên dẫn đến việc một số khách hàng dù cố gắng đến mấy vẫn không
thể hiểu rõ nội dung của nó. Như vậy, nếu thiếu sự cung cấp các thông
tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm khó có thể đi đến
quyết định giao kết hợp đồng.
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh
doanh bảo hiểm (Luật KDBH) quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ
giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm,
quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Khoản 1 Điều 19 Luật KDBH cũng
quy định: Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách
nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải
thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của
thông tin đó. Ngược lại, bên mua bảo hiểm khi tham gia quan hệ bảo hiểm
cũng phải công bố các thông tin liên quan đến tài sản mà mình mua bảo
hiểm. Theo quy định tại Điểm b, Khoản 2 Điều 18, Luật KDBH thì: “Bên mua
bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên
quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Và
để đảm bảo nguyên tắc trung thực tuyệt đối của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, bên mua bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác,
trung thực của những thông tin mà họ đưa ra. Tuy nhiên, như đã trình
bày, chỉ có doanh nghiệp bảo hiểm là người biết rõ nhất sản phẩm bảo
hiểm mà mình thiết kế, bao gồm những thông tin nào là cần thiết cho việc
hình thành nên quan hệ hợp đồng bảo hiểm, do vậy, pháp luật cho phép
bên mua bảo hiểm chỉ phải cung cấp các thông tin liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm mà thôi. Như vậy, nếu
việc không cung cấp thông tin từ phía bên mua bảo hiểm là do doanh
nghiệp bảo hiểm không yêu cầu, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không được
áp dụng trường hợp này để đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo
quy định tại Khoản 2 Điều 19, Luật KDBH về trách nhiệm cung cấp thông
tin[3].
Để tránh những tranh chấp xảy ra trong
việc thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp trong quan hệ
bảo hiểm tài sản, theo chúng tôi, trước khi giao kết hợp đồng, các bên
cần thiết phải lập biên bản ghi rõ những nội dung mà doanh nghiệp bảo
hiểm yêu cầu cũng như những thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp cho
doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi lẽ, tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm
còn có các chủ thể trung gian đó là các đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm, nếu các chủ thể này – vì quyền lợi của mình mà không
chú trọng đến việc thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp
thông tin – có thể gây bất lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo
hiểm. Theo quy định của pháp luật thì đại lý bảo hiểm là chủ thể thay
mặt doanh nghiệp bảo hiểm trong việc thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm[4]
còn doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là chủ thể thực hiện các công việc
liên quan đến quan hệ bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm[5].
Quy định về giới hạn bồi thường
Mục đích của bảo hiểm tài sản là khôi
phục lại tình trạng tài chính ban đầu cho người được bảo hiểm ngay sau
khi tổn thất xảy ra. Sự khôi phục này được gọi là bồi thường. Trong quan
hệ bảo hiểm tài sản, thuật ngữ “bồi thường” đóng vai trò hết sức quan
trọng, nó xác định phạm vi trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp bảo
hiểm. Bồi thường là cơ chế mà công ty bảo hiểm sử dụng để cung cấp khoản
tài chính với mục đích hoàn trả cho người được bảo hiểm những gì đã mất
do việc tài sản bảo hiểm gặp tổn thất trong phạm vi rủi ro được bảo
hiểm. Như vậy, có thể khẳng định, bồi thường được coi là sự đền bù chính
xác về tài chính, đủ để khôi phục tình trạng tài chính ban đầu của
người được bảo hiểm như trước khi xảy ra tổn thất.
Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, một
trong những nội dung mà các bên không thể bỏ qua, đó là, phải xác định
mối liên hệ giữa bồi thường và quyền lợi được bảo hiểm. Mối liên hệ này
thể hiện ở quyền lợi tài chính của người được bảo hiểm đối với tài sản
bảo hiểm. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm
trả cho người được bảo hiểm không được vượt quá mức độ quyền lợi tài
chính của người đó đối với tài sản bảo hiểm. Điều này cũng có nghĩa
rằng, người tham gia bảo hiểm tài sản không được kiếm lời qua con đường
bảo hiểm, nhiều nhất người bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường những gì
mình đã mất chứ không thể nhiều hơn những gì đã mất.
Quán triệt nguyên tắc bồi thường trong
bảo hiểm tài sản, Luật KDBH đã quy định về căn cứ bồi thường tại Điều 46
như sau: Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người
được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản tại
thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế và số tiền
bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không
vượt quá số tiền bảo hiểm.
Với quy định về giới hạn bồi thường trên đây, chúng tôi xin có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, pháp luật đã quy định,
căn cứ để xem xét bồi thường trong quan hệ bảo hiểm tài sản là “giá thị
trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và
mức độ thiệt hại thực tế”[6].
Tuy nhiên, vấn đề xác định giá thị trường là một việc khá khó khăn. Sở
dĩ chúng tôi đưa ra nhận xét trên đây vì giá thị trường thường tính được
đối với những tài sản còn mới, trong khi đó, tài sản rơi vào trường hợp
bảo hiểm phải là tài sản đã qua sử dụng. Vì vậy, việc xác định thiệt
hại thực tế xảy ra đối với tài sản bảo hiểm chỉ mang tính ước đoán. Để
thực hiện được điều khoản về căn cứ bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm và
bên mua bảo hiểm phải thống nhất về cách thức và biện pháp xác định giá
trị của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất.
Thứ hai, mục đích của Điều 46 là
nhằm để chống trục lợi bảo hiểm trong khi đó lại cho phép các bên thỏa
thuận về số tiền bồi thường mà không dựa vào căn cứ bồi thường[7].
Quy định này vô hình trung đã làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Vì vậy, tại Khoản 1 và 2 Điều 46 nên bỏ cụm từ “trừ trường hợp có thỏa
thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm” để đảm bảo mục đích chống trục lợi
cũng như đảm bảo tính thống nhất và nghiêm minh của pháp luật.
Quy định của pháp luật về bảo hiểm trùng
Bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo
hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để
bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm.
Pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi
vì đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản. Tức là, chủ
tài sản được quyền mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm khác nhau với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của mình đối với tài sản.
Tuy nhiên, trong quan hệ này, bên được
bảo hiểm không được phép lợi dụng yếu tố: phí bảo hiểm phải trả cho một
tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài sản để yêu cầu bảo hiểm nhiều lần
cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau nhằm mục đích nhận
được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so với giá trị của tài sản
bảo hiểm. Để ngăn chặn mục đích trục lợi trong trường hợp này, khoản 2
Điều 44 Luật KDBH quy định: “Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng
bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm
chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa
thuận trên tổng số tiền của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã
giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không
vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản”. Quy định trên có thể
được hiểu là, pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm nhiều
lần cho một tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm với cùng điều khoản
và sự kiện bảo hiểm, nhưng khi mua thì phải có nghĩa vụ thông báo cho
các doanh nghiệp bảo hiểm khác biết về điều này. Trên cơ sở các hợp đồng
bảo hiểm đã giao kết, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chịu trách
nhiệm trong phạm vi cam kết của mình trên tổng giá trị thiệt hại.
Ví dụ: Ông A có một chiếc xe ôtô hiệu M.
Ngày 2/3/2005 ông A mua bảo hiểm vật chất xe (bảo hiểm tài sản) tại
doanh nghiệp bảo hiểm B với số tiền bảo hiểm là 1,1 tỷ đồng. Ngày
3/4/2005 ông A lại mua bảo hiểm cho chiếc xe tại doanh nghiệp bảo hiểm C
với số tiền bảo hiểm là 900 triệu đồng. Cả hai hợp đồng bảo hiểm trên
đều cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Ngày 5/8/2005, chiếc xe bị tai
nạn (rủi ro xảy ra trong phạm vi bảo hiểm), tổn thất toàn bộ. Giá trị
của chiếc xe được định giá tại thời điểm tổn thất là 800 triệu đồng.
Trong trường hợp trên, trách nhiệm của hai doanh nghiệp bảo hiểm được xác định như sau:
-Doanh nghiệp bảo hiểm B phải chịu trách
nhiệm bồi thường là: 1,1 tỷ (sồ tiền bảo hiểm đã thỏa thuận giữa doanh
nghiệp B và ông A) chia cho 2 tỷ (là tổng số tiền bảo hiểm của hai hợp
đồng giao kết với doanh nghiệp bảo hiểm B và C tức 1,1 tỷ cộng với 900
triệu) được tỷ lệ là 55% nhân với giá trị thiệt hại thực tế là 800
triệu. Vậy, số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm B phải bồi thường là 440
triệu đồng.
-Doanh nghiệp bảo hiểm C phải chịu trách
nhiệm bồi thường là: 900 triệu chia cho 2 tỷ được tỷ lệ là 45% nhân với
giá trị thiệt hại thực tế là 800 triệu sẽ ra số tiền bồi thường là 360
triệu.
Như vậy, từ ví dụ trên đây cho thấy, theo
quy định của pháp luật, ông A sẽ không được nhận khoản tiền bồi thường
từ các doanh nghiệp bảo hiểm lớn hơn thiệt hại thực tế xảy ra là 800
triệu (cụ thể, cộng cả hai khoản tiền bồi thường từ hai doanh nghiệp bảo
hiểm là 440 triệu + 360 triệu = 800 triệu).
Với quy định trên đây, có quan điểm cho
rằng, quy định tại điều 44, Luật KDBH có thể dẫn đến cách hiểu rằng,
pháp luật không cho phép bên mua bảo hiểm được giao kết hợp đồng bảo
hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản. Những người theo quan điểm này lập
luận rằng, Khoản 2, Điều 44 quy định “Trong trường hợp các bên giao kết
hợp đồng bảo hiểm trùng… doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi
thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền
bảo hiểm của tất cả các hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã giao
kết” thực chất chỉ là giải quyết hậu quả xảy ra, chứ không phải là sự
thừa nhận của pháp luật trong việc cho phép giao kết hợp đồng bảo hiểm
trùng trong bảo hiểm tài sản. Tuy nhiên, chúng tôi lại không nhất trí
với quan điểm trên, bởi lẽ, pháp luật không cấm giao kết hợp đồng bảo
hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản và mục đích của bên mua bảo hiểm khi
tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản là nhằm chuyển giao rủi ro và để
giảm bớt rủi ro, bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho tài sản của
mình tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng một điều kiện và
sự kiện bảo hiểm. Sở dĩ họ chọn cách thức này vì bản thân hoạt động của
các doanh nghiệp bảo hiểm cũng hàm chứa các rủi ro, nếu một trong các
doanh nghiệp bảo hiểm này phá sản thì bên mua bảo hiểm có thể đòi bồi
thường ở các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại. Yếu tố mà pháp luật cấm ở
đây là khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên mua bảo hiểm không được đòi các
doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường theo thỏa thuận trong hợp đồng, tức sau
khi nhận tiền bồi thường thì số tiền này lớn hơn nhiều lần thiệt hại
của tài sản bảo hiểm. Nếu bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
trùng rồi lập hồ sơ đòi từng doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường
theo từng cam kết để nhận được số tiền lớn hơn giá trị tài sản, thì hành
vi này được xem là lừa đảo và sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật
Hình sự.
Quy định về bảo hiểm trên giá trị
Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp bảo
hiểm nói riêng và cộng đồng những người tham gia bảo hiểm nói chung, một
yêu cầu được đặt ra đối với bên mua bảo hiểm khi tham gia vào quan hệ
bảo hiểm tài sản là họ phải có quyền lợi đối với tài sản bảo hiểm và chỉ
được mua bảo hiểm cho tài sản trong phạm vi quyền lợi tài chính mà họ
có được từ tài sản. ở đây, chúng ta phải hiểu rằng, trong bảo hiểm tài
sản, không ai ngoài bên mua bảo hiểm là người biết rõ nhất về giá trị
của tài sản mà mình đang sở hữu, do vậy, khi tiến hành bảo hiểm cho tài
sản, bên mua bảo hiểm phải trung thực trong việc đưa ra số tiền bảo
hiểm. Pháp luật đã quy định, số tiền bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo
hiểm yêu cầu bảo hiểm cho tài sản đó[8].
Quy định này cũng có thể được hiểu là, khi bên mua bảo hiểm đã yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu một tổn thất tương ứng với số tiền bảo
hiểm thì cũng có nghĩa rằng, bên mua bảo hiểm có quyền lợi tài chính từ
tài sản bảo hiểm tương đương với số tiền bảo hiểm.
Như vậy, trong bảo hiểm tài sản, sẽ không
thể hình thành nên một giao dịch mà số tiền bảo hiểm cao hơn giá thị
trường của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng. Lý do, bên mua bảo
hiểm không thể yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu thay mình một tổn
thất mà họ không thể có được, bởi vì, quyền lợi tài chính mà bên mua
bảo hiểm thực có chỉ được tính đúng bằng giá thị trường của tài sản. Nếu
trường hợp do vô ý, bên mua bảo hiểm nhầm tưởng về giá trị của tài sản
mà giá trị này cao hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm giao
kết, thì số tiền mà bên mua bảo hiểm nhận được cũng không vượt quá giá
thị trường của tài sản được bảo hiểm[9].
Tức là, trong trường hợp này, pháp luật chỉ thừa nhận tính hợp pháp của
giao dịch trong phạm vi giá thị trường của tài sản, còn phần vượt quá
sẽ vô hiệu. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhầm tưởng này sẽ rất khó xảy
ra, bởi lẽ khi một người sở hữu một tài sản có giá trị, họ sẽ phải
thường xuyên quan tâm đến các thông tin liên quan đến quyền lợi tài
chính của mình đối với tài sản. Đồng thời trước khi tham gia vào một
giao dịch với mục đích bảo vệ quyền lợi tài chính đối với tài sản, họ
phải là người biết rõ nhất giá trị tài sản cần bảo vệ là bao nhiêu. Vì
thế trên thực tế, hợp đồng bảo hiểm tài sản được giao kết trên giá trị
thường là do bên mua bảo hiểm cố ý để được hưởng quyền lợi tài chính
nhiều hơn mình có. Khi xảy ra trường hợp trên, chúng ta có thể coi đây
là hành vi trục lợi. Nếu bên mua bảo hiểm thực hiện hành vi trục lợi
thông qua việc cố tình yêu cầu một số tiền bảo hiểm lớn hơn giá thị
trường của tài sản thì pháp luật không thừa nhận giao dịch này.
Cụ thể, Khoản 1 Điều 42 Luật KDBH quy
định “Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hợp đồng trong đó số
tiền bảo hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời
điểm giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không
được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị”. Việc pháp luật
không cho phép giao kết hợp đồng bảo hiểm trên giá trị nhằm ngăn chặn
tình trạng trục lợi thông qua việc bên mua bảo hiểm cố ý khai tăng giá
trị của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng, nhằm được hưởng số tiền
bảo hiểm lớn hơn giá trị của tài sản.
Về quy định này, chúng tôi xin có một số ý kiến sau:
Thứ nhất, phần cuối Khoản 1,
Điều 42 Luật KDBH quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm
không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị” nhưng ở
Khoản 2 lại quy định “trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên
giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương
ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo
hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan…”. Theo chúng tôi, quy
định như trên là không thống nhất giữa khoản 1 và khoản 2, cụ thể ở
khoản 1 đã quy định không cho phép thì sẽ không có quy định tại Khoản 2,
bởi vì quy định tại khoản 2 là thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo
hiểm trên giá trị.
Thứ hai, nội dung quy định tại
Khoản 2 là không khả thi, bởi vì tiêu chí để xác định thế nào là vô ý và
thế nào là cố ý trên thực tế là không có cơ sở, trong nhiều trường hợp
chỉ là sự suy đoán chủ quan. Vì vậy, ý nghĩa chống trục lợi của quy định
này trên thực tế sẽ rất khó áp dụng, theo chúng tôi, nên bỏ Khoản 2 của
Điều 42, tức là không thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm tài
sản trên giá trị dù là vô ý hay cố ý, tức là nếu trường hợp các bên có
giao kết thì hợp đồng sẽ không phát sinh hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, để
bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm trong trường hợp họ giao kết hợp
đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hoàn toàn do lỗi vô ý, pháp luật
nên cho phép một biên độ giao động giữa giá thị trường của tài sản tại
thời điểm giao kết hợp đồng và số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu
cầu bảo hiểm đối với tài sản, biên độ này có thể là (+)(-) 5% để chống
trục lợi.
Quy định về nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất đối với bên mua bảo hiểm
Như đã nói, bảo hiểm là sự hoán chuyển
rủi ro từ người được bảo hiểm sang doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Rủi ro dẫn đến sự kiện bảo hiểm phải là những rủi ro mà
bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm không lường trước được. Tuy
nhiên, điều đó cũng không có nghĩa rằng, một khi có rủi ro xảy ra, con
người sẽ hoàn toàn bất lực trước những tổn thất mà nó mang lại. Rủi ro
là yếu tố xảy ra ngoài ý muốn của các bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm,
nhưng ngược lại, khi có rủi ro xảy ra, con người có thể thực hiện những
biện pháp nhất định nhằm hạn chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra.
Con người không thể quyết định được rủi ro có xảy ra hay không, nhưng có
thể quyết định được việc giảm bớt những tổn thất do rủi ro mang lại
bằng những biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất.
Từ những phân tích trên cho thấy, khi chủ
sở hữu tài sản đã mua bảo hiểm cho tài sản thì họ đã chuyển giao những
rủi ro của mình sang cho doanh nghiệp bảo hiểm nếu tài sản bảo hiểm gặp
rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất. Tuy nhiên, khi mua bảo
hiểm, rõ ràng bên mua bảo hiểm cũng không mong muốn tổn thất sẽ xảy ra
đối với tài sản, bởi vì, đó là những tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Như vậy, để thể hiện sự không mong muốn này, trong thời gian mua bảo
hiểm, họ phải thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có thể
xảy ra đối với tài sản bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tài sản, pháp luật cho
phép các bên tham gia giao kết hợp đồng được ấn định một số tiền bảo
hiểm cho tài sản, số tiền này về nguyên tắc phải tương đương với giá trị
của tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tương xứng này không thể mang
tính tuyệt đối, bởi vì, số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào giá
trị của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng, mà đặc trưng của tài
sản thì thường hao mòn (giảm giá trị) thông qua quá trình sử dụng. Do
vậy, khi tổn thất xảy ra, nếu không còn tài sản để xác định giá trị tại
thời điểm xảy ra tổn thất, thông thường doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ
vào số tiền bảo hiểm để ấn định số tiền bồi thường và ở một chừng mực
nào đó, số tiền bồi thường dựa vào căn cứ này sẽ có lợi cho bên được bảo
hiểm. Trước thực tế này, rất nhiều trường hợp, người được bảo hiểm đã
nảy sinh ý đồ trục lợi thông qua việc để mặc cho tổn thất xảy ra nhằm
hưởng tiền bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm.
Để ngăn chặn ý đồ trục lợi của bên mua bảo hiểm (người được bảo hiểm), Điều 50 Luật KDBH quy định:
- Người được bảo hiểm phải thực hiện các
quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh lao động và
những quy định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an toàn cho
đối tượng bảo hiểm.
- Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra
các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị,
yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi
ro.
- Trong trường hợp người được bảo hiểm
không thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm thì
doanh nghiệp bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để người được bảo
hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các biện pháp
bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm.
Như vậy, việc pháp luật cho phép doanh
nghiệp bảo hiểm được quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm là biện pháp ngăn chặn người được bảo hiểm thực hiện ý đồ trục lợi
của mình. Ngoài ra, liên quan đến nghĩa vụ đề phòng, hạn chế tổn thất
đối với tài sản bảo hiểm của người được bảo hiểm, pháp luật còn ngăn
chặn mục đích trục lợi trong quan hệ bảo hiểm tài sản thông qua quy định
người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm[10],
trừ trường hợp, người được bảo hiểm từ bỏ tài sản là nhằm để tránh tổn
thất chung, vì cứu người hoặc trong trường hợp khẩn cấp… Quy định không
được phép từ bỏ tài sản xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tài sản để tránh tổn
thất xảy ra, dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm
bồi thường từ hành vi vô trách nhiệm đối với tài sản bảo hiểm của người
được bảo hiểm. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh tình trạng lợi
dụng rủi ro để hủy hoại tài sản nhằm mục đích trục lợi của bên được bảo
hiểm.
Quy định về nghĩa vụ bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
Mục đích của bên được bảo hiểm khi tham
gia quan hệ bảo hiểm tài sản là khôi phục một cách nhanh chóng tình
trạng tài chính của mình khi tài sản bảo hiểm bị tổn thất, đây là ý định
chính đáng được pháp luật thừa nhận. Hơn nữa, khác với các hoạt động
kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động dịch vụ tạo
ra sản phẩm vô hình. Mục đích của bảo hiểm là đem lại sự an tâm, an toàn
về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể
xảy ra. Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm trừu tượng nên không dễ nhìn thấy
được và không dễ nhận biết được lợi ích cơ bản, công dụng của sản phẩm.
Sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng là lời hứa, là
sự cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm: sẽ bồi thường cho khách hàng khi
tổn thất xảy ra đối với tài sản bảo hiểm.
Hành vi trây ỳ trong việc bồi thường cho
người được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản nhằm mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp bảo hiểm cần được pháp luật nghiêm cấm. Bởi vì, hành vi này
không những gây thiệt hại cho người được bảo hiểm mà còn ảnh hưởng rất
lớn đến uy tín kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, tác động xấu
đến quá trình xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và
thị trường bảo hiểm tài sản nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, trong
một số trường hợp, vì lợi ích thiển cận trước mắt của chính doanh nghiệp
bảo hiểm hoặc lợi ích cá nhân của mình mà một số nhân viên bảo hiểm đã
cố tình dây dưa trong việc thực hiện bồi thường cho người được bảo hiểm.
Để ngăn chặn hành vi trục lợi này, pháp luật đã quy định một trong
những nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp bảo hiểm là “Bồi thường kịp
thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”[11].
Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm, Điều 29 Luật
KDBH quy định: Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải
bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trong
trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả tiền bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu bồi thường. Đây là thời gian ấn định để
doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình. Đồng thời
quy định này cũng có ý nghĩa ngăn ngừa việc doanh nghiệp bảo hiểm cố
tình không đưa điều khoản về thời hạn trả tiền bồi thường trong hợp đồng
nhằm kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường để chiếm dụng vốn
của người được bảo hiểm.
Tóm lại, trục lợi bảo hiểm tài sản là
những hành vi lừa dối nhằm hưởng lợi bất hợp pháp trong quan hệ bảo hiểm
tài sản. Hiện nay, hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm nói chung và bảo
hiểm tài sản nói riêng đang là vấn đề đáng quan ngại, làm ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường
bảo hiểm tài sản nói riêng. Việc nhận diện các hành vi trục lợi để có cơ
chế xử lý phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng cho công cuộc xây
dựng và phát triển lành mạnh thị trường bảo hiểm tài sản ở Việt Nam.
[1] Xem Khoản 1 Điều 3 Luật KDBH.
[2] Như đã trình bày, “sản phẩm” mà doanh nghiệp bảo hiểm bán chính là lời hứa là cam kết chi trả tài chính trong tương lai cho người được bảo hiểm nếu tài sản bảo hiểm gặp tổn thất trong phạm vi rủi ro được bảo hiểm.
[3] Theo quy định tại Khoản 2, Điều 19 thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau đây:
-Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường.
-Không thông báo những trường hợp có thể làm gia tăng rủi ro hoặc làm phát sinh trách nhiệm bảohiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiển theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm
[4] Theo quy định tại Điều 85, Luật KDBH thì Đại lý bảo hiểm thực hiện các công việc: Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm; thu phí bảo hiểm…
[5] Xem Điều 90, Luật KDBH
[6] Khoản 1, Điều 46, Luật KDBH
[7] Khoản 1 và Khoản 2, Điều 46 Luật KDBH đều có câu “trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm”.
[8] Xem Điều 41 Luật KDBH
[9] Khoản 2 Điều 42 Luật KDBH quy định: “Trong trường hợp, hợp đồng bảo hiểm trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản bảo hiểm sau khi trừ các chi phí có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không vượt quá giá thị trường của tài sản bảo hiểm”.
[10] Điều 51 Luật KDBH quy định: Trong trường hợp xảy ra tổn thất người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm trừ trường hợp pháp luật có quy định hoặc hai bên có thỏa thuận.
[11] Điểm c, khoản 2, Luật KDBH
SOURCE: NCLP.ORG.VN (PHIÊN BẢN CŨ CỦA TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ)
SOURCE: NCLP.ORG.VN (PHIÊN BẢN CŨ CỦA TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ)



2:13 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment