THS. NGUYỄN THANH TÚ – KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI - ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông tin đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế tri thức. Việc giữ bí mật thông tin ngày càng được đề cao trong
các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Trong
quá trình giao dịch với khách hàng, tổ chức tín dụng nắm rất nhiều thông
tin khách hàng, đó là những thông tin liên quan đến quá trình hoạt động
sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính hay những thông tin liên quan
đến các vấn đề riêng tư cá nhân của khách hàng… Những thông tin này rất
nhạy cảm, có thể có giá trị kinh tế cao, cần phải được bảo vệ để không
bị người khác khai thác, sử dụng. Chính vì thế, tổ chức tín dụng phải có
nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng1. Một tổ chức tín dụng không
giữ bí mật thông tin khách hàng thường sẽ mất lòng tin của khách hàng
nói riêng và của công chúng nói chung. Tuy nhiên, tổ chức tín dụng không
thể vì giữ bí mật thông tin khách hàng mà làm ảnh hưởng đến lợi ích
chung hay tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động phạm pháp như
khủng bố, rửa tiền, lừa đảo… Trong những trường hợp đặc biệt, tổ chức
tín dụng có thể cung cấp thông tin khách hàng cho bên thứ ba. Do đó,
pháp luật cần phải có chế định về nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách
hàng của tổ chức tín dụng, các trường hợp ngoại lệ và chế tài thích hợp
nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ này.
Theo pháp luật ngân hàng Việt Nam, nghĩa vụ của tổ
chức tín dụng trong việc giữ bí mật thông tin khách hàng được quy định
tại Điều 17 và Điều 104 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997. Cho đến năm
2000, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 70/2000/NĐ- CP ngày 21/11/2000
về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền
gửi và tài sản gửi của khách hàng; sau đó Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 4/4/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định
trên. Tuy nhiên, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng giữ bí mật thông tin
khách hàng theo quy định của pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện nay còn
chưa đầy đủ với nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra trong bài viết là xác định
cơ sở của nghĩa vụ, phạm vi của nghĩa vụ, các trường hợp ngoại lệ và xem
xét quy định của pháp luật ngân hàng Việt Nam về vấn đề này. Qua đó bài
viết có một số đề xuất liên quan đến việc hoàn thiện các quy định pháp
luật về nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng.
II. KHÁI QUÁT VỀ NGHĨA VỤ VÀ CƠ SỞ CỦA NGHĨA VỤ
Nghĩa vụ giữ (bảo vệ) bí mật thông tin khách hàng của
tổ chức tín dụng trong chừng mực nào đó có thể tương tự như nghĩa vụ
của bác sĩ, luật sư hay kiểm toán viên. Tuy nhiên, nghĩa vụ này không
chỉ dừng lại ở vấn đề đạo đức hay quy tắc nghề nghiệp mà nó thực sự là
một nghĩa vụ pháp lý mà tất cả các tổ chức tín dụng phải tuân thủ trong
quá trình hoạt động ngân hàng của mình.
Nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của tổ chức
tín dụng thường được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp
luật về ngân hàng của các quốc gia theo hệ thống luật thành văn2. Đối
với các quốc gia theo hệ thống án lệ, tòa án các quốc gia này cũng có
nhiều phán quyết nêu rõ nghĩa vụ của ngân hàng trong việc giữ bí mật
thông tin khách hàng3.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cơ sở pháp lý hay
nguồn gốc, xuất phát điểm của nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng
của tổ chức tín dụng. Ở Đức, nơi mà các quyền cơ bản, đặc biệt là quyền
riêng tư của cá nhân và của pháp nhân được quy định cụ thể trong Hiến
pháp liên bang, theo một số luật gia, nghĩa vụ này xuất phát và được bảo
vệ bởi Hiến pháp liên bang4. Dưới góc độ nhân quyền, có quan điểm cho
rằng nghĩa vụ này xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng thông tin cá nhân,
đời sống riêng và bí mật thư tín – một trong những nguyên tắc cơ bản của
nhân quyền, được quy định tại Điều 8 Công ước Châu Âu về nhân quyền
(EHRC). Thậm chí có quan điểm cho rằng nghĩa vụ của tổ chức tín dụng
trong việc giữ bí mật thông tin khách hàng dựa vào các quy định của luật
hình sự, bởi vì theo Điều 47 Luật Liên bang về ngân hàng và ngân hàng
tiết kiệm của Thụy Sĩ, chủ thể vi phạm nghĩa vụ của tổ chức tín dụng
trong việc giữ bí mật thông tin khách hàng, dù cố ý hay vô ý đều bị phạt
tù (tối đa 6 tháng) hoặc bị phạt tiền (lên tới 50,000 Franc Thụy Sĩ)5.
Chính quy định giữ bí mật thông tin khách hàng nghiêm khắc này của pháp
luật Thụy Sĩ là một trong những yếu tố quan trọng thu hút khách hàng gửi
tiền, tài sản và tiến hành các giao dịch với các ngân hàng Thụy Sĩ,
giúp Thụy Sĩ trở thành một nước có công nghiệp ngân hàng rất phát triển.
Tuy nhiên quan điểm phổ biến hiện nay là nghĩa vụ giữ
bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng một mặt là nghĩa vụ
hàm chứa trong thỏa thuận về giữ bí mật thông tin trong hợp đồng ký kết
giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, mặt khác là nghĩa vụ xuất phát từ
nguyên tắc bảo vệ chủ thể pháp lý hay bảo vệ quyền con người và quyền
riêng tư cá nhân trong luật dân sự6.
Khi tiến hành giao dịch hay tham gia vào các hoạt
động ngân hàng được tiến hành bởi các tổ chức tín dụng, các cá nhân hay
pháp nhân đều có sự tin tưởng và tín thác (trust) đối với tổ chức tín
dụng đó. Vì vậy, có thể hợp đồng giao dịch giữa tổ chức tín dụng và
khách hàng không quy định cụ thể, rõ ràng nghĩa vụ của tổ chức tín dụng
trong việc giữ bí mật thông tin khách hàng, nhưng các bên tham gia hợp
đồng cần phải ngầm hiểu rằng đó là nghĩa vụ bắt buộc của tổ chức tín
dụng trong quá trình tiến hành hoạt động ngân hàng. Mặt khác nghĩa vụ
này còn xuất phát từ nguyên tắc thiện chí, tôn trọng lợi ích của nhau
trong các giao dịch dân sự, thương mại. Chính vì vậy, pháp luật một số
quốc gia cho rằng nghĩa vụ này là nghĩa vụ mặc nhiên của tổ chức tín
dụng xuất phát từ điều khoản ngầm về giữ bí mật thông tin trong hợp
đồng. Điều này đặc biệt được khẳng định rõ trong pháp luật của các quốc
gia theo hệ thống án lệ7.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tổ chức tín dụng có nghĩa
vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng tiềm năng8 hay các thông tin của
các đối tác của khách hàng hay không bởi giữa tổ chức tín dụng và khách
hàng tiềm năng và giữa tổ chức tín dụng với đối tác của khách hàng
không có (hoặc chưa) ký kết hợp đồng. Những thông tin của khách hàng
tiềm năng hay thông tin của các đối tác của khách hàng (đối tác đó không
có quan hệ trực tiếp với tổ chức tín dụng) mà tổ chức tín dụng nắm được
đều có thể có giá trị kinh tế, nếu bị tiết lộ có thể ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của khách hàng tiềm năng hay đối tác của khách hàng.
Điều này chưa thể giải thích rõ ràng nếu dựa trên cơ sở hợp đồng9.
Do đó, độc lập với các quan hệ hợp đồng, nghĩa vụ giữ
bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng cũng có thể dựa trên
các quy định pháp lý về bảo vệ các vấn đề riêng tư và quyền cá nhân10.
Việc bảo vệ này rất quan trọng đối với khách hàng bởi song song với
nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng theo hợp
đồng như đã phân tích ở trên, việc bảo vệ quyền riêng tư và quyền cá
nhân có thể rộng hơn nghĩa vụ giữ bí mật thông tin theo hợp đồng. Bên
cạnh đó, việc bảo vệ vấn đề riêng tư và quyền cá nhân có thể dùng để
giải thích cho nghĩa vụ của tổ chức tín dụng giữ bí mật thông tin của
khách hàng tiềm năng và thông tin của đối tác của khách hàng11.
Hiện nay, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hầu như
chưa công nhận điều khoản ngầm hay nghĩa vụ ẩn, không được quy định rõ,
cụ thể trong hợp đồng mặc dù có thừa nhận nguyên tắc thiện chí và hợp
tác12. Trên thực tế, khách hàng chưa thể viện dẫn Điều 135 và 408 Bộ
luật Dân sự về giải thích giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự để chứng
minh rằng tổ chức tín dụng có nghĩa vụ giữ bí mật các thông tin mà khách
hàng cung cấp cho tổ chức tín dụng hay các thông tin mà tổ chức tín
dụng thu thập được trong quá trình giao dịch nếu các bên không có thỏa
thuận trước về nghĩa vụ này. Trong khi đó rất ít hợp đồng được ký kết
giữa tổ chức tín dụng và khách có điều khoản về nghĩa vụ của tổ chức tín
dụng giữ bí mật thông tin khách hàng13. Và nếu có thì nghĩa vụ này cũng
chỉ được quy định hết sức sơ sài, không đầy đủ14.
Nếu xem các hợp đồng được ký kết giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng là hợp đồng dịch vụ thì theo quy định tại khoản 5
Điều 525 Bộ luật Dân sự, tổ chức tín dụng (bên làm dịch vụ) có nghĩa vụ:
“giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian làm dịch vụ,
nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Khi các bên không có thỏa
thuận về việc giữ bí mật thông tin thì khách hàng chỉ có thể dựa vào
các quy định của pháp luật. Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam cũng
không có quy định cụ thể về việc giữ bí mật các thông tin liên quan đến
giao dịch tài chính và tình hình tài chính của cá nhân, pháp nhân và các
thông tin liên quan; đặc biệt không có các quy định pháp lý về bảo vệ
quyền riêng tư của một pháp nhân cho dù về mặt lý luận cũng như thực
tiễn, một pháp nhân cũng cần có các quyền riêng tư như một cá nhân trong
chừng mực có thể áp dụng được cho pháp nhân15. Ngoài ra, các thông tin
được khách hàng cung cấp cho tổ chức tín dụng trong quá trình tham gia
hoạt động ngân hàng mà không có thỏa thuận trước về giữ bí mật thì không
thỏa mãn quy định tại điểm c khoản 1 Điều 6 Nghị định số 54/2000/NĐ- CP
về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh vì chủ sở
hữu đã không bảo mật thông tin bằng các biện pháp cần thiết, nên không
thể được bảo vệ theo quy định của Nghị định này.
Tuy nhiên, pháp luật ngân hàng Việt Nam cũng đã có
những quy định ban đầu về nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của
tổ chức tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng tại khoản 3 Điều 17 quy định
nghĩa vụ của tổ chức tín dụng “bảo đảm bí mật số dư tiền gửi của khách hàng”, tại khoản 2 Điều 104 khẳng định: “tổ chức tín dụng được quyền từ chối yêu cầu của tổ chức, cá nhân về việc cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi, tài sản của khách hàng…”.
Như vậy, khoản 2 Điều 104 Luật các tổ chức tín dụng
chưa thực sự quy định rõ nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của tổ
chức tín dụng mà chỉ xem đây là quyền (có thể thực hiện hoặc không) của
tổ chức tín dụng từ chối yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến tiền
gửi, tài sản của khách hàng cho bên thứ ba, còn khoản 3 Điều 17 chỉ dừng
lại ở nghĩa vụ của tổ chức tín dụng giữ bí mật số dư tiền gửi của khách
hàng. Nhưng khi quy định chi tiết Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng, Nghị định số 70/2000/NĐ-CP đã khẳng định đây
chính là nghĩa vụ của tổ chức tín dụng và nội dung thông tin cần giữ bí
mật đã được mở rộng, không chỉ dừng lại ở số dư tiền gửi của khách hàng
mà bao hàm tất cả các thông tin có liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi
của khách hàng.
III. PHẠM VI CỦA NGHĨA VỤ
Về mặt lý luận, thông tin khách hàng mà tổ chức tín
dụng có nghĩa vụ giữ bí mật bao hàm tất cả các thông tin mà tổ chức tín
dụng có được do khách hàng cung cấp hay các thông tin mà tổ chức tín
dụng có thể thu thập được thông qua quá trình tiến hành hoạt động ngân
hàng của mình. Tuy nhiên, những thông tin này phải là những thông tin có
giá trị, cần giữ bí mật, nếu bị tiết lộ sẽ có thể ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Nếu một khách hàng có tài khoản
thanh toán tại một tổ chức tín dụng và số hiệu tài khoản này được khách
hàng công bố trên các giấy tờ giao dịch hàng ngày của mình thì việc tổ
chức tín dụng cung cấp số hiệu tài khoản đó cho bên thứ ba không vi phạm
nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng.
Nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của tổ chức
tín dụng không giới hạn ở một nhóm khách hàng cụ thể nào mà đối với tất
cả khách hàng tham gia hoạt động ngân hàng với tổ chức tín dụng đó. Theo
quy định của pháp luật ngân hàng Việt Nam: “hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán”16.
Như vậy, khách hàng của tổ chức tín dụng không chỉ là
người gửi tiền, gửi tài sản mà còn là người đi vay, người được cung cấp
các dịch vụ thanh toán, người mua, bán ngoại tệ và các giấy tờ có giá,
người thuê mua tài chính, người được tư vấn tài chính… Trong quá trình
tiến hành hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng nắm được các thông tin
liên quan đến các khách hàng này. Mọi khách hàng đều mong muốn được giữ
bí mật những thông tin đó và họ có sự tin tưởng, tín thác đối với tổ
chức tín dụng nên tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phải giữ bí mật thông tin
của tất cả khách hàng.
Đồng thời, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng
của tổ chức tín dụng không chỉ giới hạn ở khách hàng hiện hữu mà còn cả
khách hàng tiềm năng, những người đã từng là khách hàng và cả đối tác
của khách hàng.
Đối với khách hàng tiềm năng, một cá nhân hay một
doanh nghiệp tuy chưa từng có giao dịch với tổ chức tín dụng nhưng có
thể đến tổ chức tín dụng đó để xin vay vốn. Khi đó trong hồ sơ vay vốn
của cá nhân hay doanh nghiệp phải có những thông tin cần phải giữ bí mật
với bên thứ ba như tình hình tài chính của cá nhân, doanh nghiệp và dự
án đầu tư, phương thức sản xuất, kinh doanh17. Nếu tổ chức tín dụng và
cá nhân hay doanh nghiệp này chưa (hoặc không) ký kết hợp đồng tín dụng
nhưng thông tin này bị tổ chức tín dụng tiết lộ cho đối thủ cạnh tranh
thì việc tiết lộ thông tin này có thể gây thiệt hại lớn cho cá nhân,
doanh nghiệp. Thêm vào đó, tổ chức tín dụng cũng có nghĩa vụ giữ bí mật
thông tin của khách hàng sau khi tổ chức tín dụng và khách hàng chấm dứt
giao dịch vì những thông tin này vẫn còn giá trị nếu bị đối thủ cạnh
tranh của khách hàng khai thác hay những thông tin này vẫn cần được giữ
bí mật vì vấn đề riêng tư.
Ngoài ra, trong quá trình giao dịch với khách hàng,
tổ chức tín dụng cũng có thể biết được các thông tin liên quan đến tình
hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của các đối tác của khách
hàng. Ví dụ như trong thanh toán bằng thư tín dụng, ngân hàng thông báo
(ngân hàng của bên bán) có thể không có mối quan hệ trực tiếp với bên
mua hàng. Nhưng ngân hàng thông báo có thể biết được những thông tin như
khối lượng, giá cả, thời gian nhận hàng, thời gian thanh toán… của bên
mua. Nếu đối thủ của bên mua hàng được ngân hàng thông báo cung cấp
những thông tin này thì đối thủ đó có thể có biện pháp cạnh tranh không
lành mạnh, chèn ép bên mua hàng và kết quả là có thể gây thiệt hại cho
bên mua hàng. Do đó tổ chức tín dụng cũng phải có nghĩa vụ giữ bí mật
những thông tin của đối tác của khách hàng.
Pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật các tổ chức tín
dụng và Nghị định số 70/2000/NĐ- CP, Thông tư số 02/2001/TT-NHNN, đã có
quy định về nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín
dụng, nhưng còn rất hạn chế. Pháp luật chỉ dừng lại ở nghĩa vụ đối với
các thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng, tức
khách hàng ở đây chỉ dừng lại ở người gửi tiền và gửi tài sản hiện hữu.
Và mặc dù các văn bản pháp luật này có quy định về nghĩa vụ của tổ chức
tín dụng giữ bí mật thông tin của khách hàng là người gửi tiền, gửi tài
sản nhưng chưa có quy định cụ thể về chế tài đối với tổ chức tín dụng
trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ này.
Như vậy, rất nhiều khách hàng trong quá trình tham
gia hoạt động ngân hàng với các tổ chức tín dụng (bao gồm khách hàng
không phải là người gửi tiền, gửi tài sản cũng như khách hàng tiềm năng,
những người đã từng là khách hàng, hay đối tác của khách hàng) cũng có
nhu cầu được tổ chức tín dụng giữ bí mật thông tin mà họ cung cấp cho tổ
chức tín dụng hay thông tin mà tổ chức tín dụng thu thập được. Nhưng
pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định trách nhiệm của tổ chức tín
dụng giữ bí mật những thông tin liên quan đến nhóm khách hàng này. Do đó
trong quá trình giao dịch giữa khách hàng với tổ chức tín dụng, khách
hàng thường ngại tiết lộ thông tin với tổ chức tín dụng; các dự án,
phương án đầu tư, sản xuất kinh doanh trong hồ sơ xin vay vốn của khách
hàng tại tổ chức tín dụng thường sơ sài, không đúng thực tế, gây khó
khăn cho tổ chức tín dụng trong quá trình đánh giá, xét duyệt cho vay.
Đây cũng chính là một trong những lý do khiến cho
hoạt động dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tư vấn tài chính của tổ
chức tín dụng Việt Nam cho khách hàng không phát triển.
IV. CÁC TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ CỦA NGHĨA VỤ
Tuy tổ chức tín dụng có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin
của khách hàng nhưng nghĩa vụ này không phải là tuyệt đối, nó cũng có
những trường hợp ngoại lệ nhất định cần được pháp luật quy định cụ thể.
Thứ nhất, tổ chức tín dụng cung cấp thông
tin theo yêu cầu của khách hàng hay người được khách hàng ủy quyền theo
quy định của pháp luật. Vì đây là những thông tin của khách hàng nên khi
khách hàng yêu cầu thì tổ chức tín dụng phải cung cấp những thông tin
đó cho khách hàng hay người được khách hàng chỉ định. Điều này đã được
quy định rõ tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP.
Thứ hai, tổ chức tín dụng cung cấp thông tin
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thanh
tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo quy định của pháp luật.
Việc cung cấp thông tin này là bắt buộc do luật định nhưng cũng phải
tuân thủ những thủ tục cần thiết18.
Thứ ba, tổ chức tín dụng cung cấp thông tin
của khách hàng vì lợi ích công cộng. Một trong những nguyên tắc của luật
dân sự là nguyên tắc tôn trọng, đảm bảo lợi ích công cộng hay lợi ích
chung. Tổ chức tín dụng phải cung cấp các thông tin của khách hàng liên
quan đến những khoản tiền bất hợp pháp, hay hành vi rửa tiền, lừa đảo…
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền19. Ngoài ra, tổ chức tín dụng cần
cung cấp thông tin của khách hàng cho ngân hàng trung ương20, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi nhằm giúp các định chế này có kế hoạch, chính sách
thích hợp phục vụ cho lợi ích hung, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các tổ chức tín dụng. Ngoại lệ này đã được quy định tản mạn
trong Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Bộ luật Hình
sự 1999… nhưng Nghị định số 70/2000/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết lại không
quy định đầy đủ và khái quát về trường hợp ngoại lệ này.
Thứ tư, tổ chức tín dụng cung cấp thông tin
của khách hàng vì lợi ích chính đáng của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín
dụng có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng nhưng nghĩa vụ này
không thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng.
Ví dụ điển hình của trường hợp ngoại lệ này là khi tổ
chức tín dụng tiến hành khởi kiện khách hàng để thu hồi khoản tiền cho
khách hàng vay đã đến hạn nhưng không được trả. Trong trường hợp này, tổ
chức tín dụng sẽ cung cấp các thông tin liên quan đến tài khoản của
khách hàng, số tiền mà khách hàng còn nợ tổ chức tín dụng liên quan đến
việc vay vốn đó cho luật sư, cho cơ quan tài phán. Hoặc trong trường hợp
tài khoản thanh toán của khách hàng không đủ tiền để thanh toán tờ séc
thì tổ chức tín dụng thông báo cho người nộp séc về vấn đề này21. Rõ
ràng, việc tiết lộ các thông tin đó là hợp pháp. Tổ chức tín dụng còn có
thể cung cấp thông tin của khách hàng trong nội bộ tổ chức tín dụng,
thậm chí cho các công ty con của mình nhưng không được sử dụng những
thông tin đó để tiến hành các hoạt động kinh doanh, tiếp thị22. Ngoài ra
các tổ chức tín dụng còn có thể cung cấp thông tin của khách hàng cho
nhau để phục vụ cho hoạt động nội bộ của các tổ chức tín dụng trên
nguyên tắc có đi có lại, hay tổ chức tín dụng là bên nhận ủy thác cho
vay vốn có thể cung cấp thông tin của khách hàng vay vốn cho bên ủy thác
cho vay vốn23. Tuy nhiên, Nghị định số 70/2000/NĐ-CP chỉ quy định việc
cung cấp thông tin nhằm phục vụ hoạt động nội bộ của tổ chức tín dụng và
giữa các tổ chức tín dụng24 mà chưa xác định rõ việc cung cấp thông tin
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của tổ chức tín dụng nói
chung.
V. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Pháp luật ngân hàng Việt Nam cần
quy định rõ và đầy đủ nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc giữ bí
mật thông tin khách hàng cũng như các trường hợp ngoại lệ của nghĩa vụ
này. Điều này có thể được thực hiện bằng việc sửa đổi, bổ sung Điều 104
của Luật các tổ chức tín dụng.
Như đã phân tích, khoản 2 Điều 104 và khoản 3 Điều 17
Luật các tổ chức tín dụng là quy định pháp lý cao nhất hiện nay quy
định cụ thể về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng giữ bí mật thông tin của
một nhóm nhỏ khách hàng. Tuy nhiên tiêu đề của Điều 17 là “Bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền” còn tiêu đề của Điều 104 là “Bảo mật thông tin
ngân hàng”. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Điều 104 Luật các tổ chức tín
dụng để quy định đầy đủ về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng giữ bí mật
thông tin của tất cả các khách hàng là hợp lý nhất.
2. Pháp luật ngân hàng Việt Nam cũng
cần phải quy định cụ thể chế tài trong trường hợp tổ chức tín dụng để
lộ bí mật thông tin khách hàng dù cố ý hay vô ý. Nếu không có chế tài cụ
thể thì khi xảy ra sai phạm, tổ chức tín dụng hầu như sẽ ít chịu trách
nhiệm vì vấn đề khách hàng chứng minh thiệt hại để đòi bồi thường khi bị
tiết lộ thông tin là rất khó và sẽ có nhiều tranh cãi. Việc quy định cụ
thể chế tài đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ sẽ khiến tổ chức
tín dụng chấp hành tốt hơn nghĩa vụ này.
3. Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Dân sự bằng việc thêm điều khoản về bảo vệ thông tin riêng
tư nói chung và các thông tin liên quan đến tài chính của cá nhân và
pháp nhân (đặc biệt là pháp nhân) cũng là một vấn đề cần được đặt ra để
nghiên cứu. Tóm lại, hoàn thiện các quy định pháp lý về nghĩa vụ giữ bí
mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng sẽ góp phần gia tăng thêm
niềm tin của khách hàng đối với tổ chức tín dụng, nâng cao trách nhiệm
của các tổ chức tín dụng trong việc bảo mật thông tin, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của khách hàng. Nhất là khi các hoạt động ngân hàng
thông qua điện thoại (telephone banking) và thông qua mạng internet
(e-banking) đang bước đầu phát triển mạnh ở Việt Nam, việc hoàn thiện
các quy định pháp lý như vậy là hết sức cấp thiết.
Chú thích:
1 Nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng
được hiểu là nghĩa vụ của tổ chức tín dụng, của cán bộ, nhân viên của tổ
chức tín dụng đó.
2 Ví dụ Điều 47 Luật Liên bang về ngân hàng và
ngân hàng tiết kiệm năm 1934 của Thụy Sĩ; Mục 97 (1) Luật các chế định
tài chính và hoạt động ngân hàng năm 1989 của Malaysia.
3 Theo phán quyết của Tòa kháng án (Court of
Appeals) Anh năm 1923 trong án lệ Tournier v. National Provincial and
Union Bank of England ([1924] 1KB 461), lần đầu tiên luật pháp nước Anh
đã xác định rõ nghĩa vụ pháp lý của ngân hàng trong việc giữ bí mật
thông tin khách hàng. Ở Mỹ, phán quyết của Tòa tối cao bang Idaho năm
1961 trong án lệ Peterson v. Idaho First National Bank (367 P.2d 248
[Ida1]) là phán quyết sớm nhất trong lĩnh vực này.
4 Ví dụ Điều 2 Hiến pháp Liên bang Đức cũng như
Điều 13 Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ. Xem O. sandrock and E. Klausing,
“Germany”, in Ross Cranston (ed.), European Banking Law, LLP, London, 1993, tr. 91.
5 Xem Ross Cranston, Principles of Banking Law, Clarebdon Press, Oxford, 1997, tr. 182.
6 Xem Franco Taisch, Confidentiality at the Bank
Counter or Protection of Personality in the Banking Business,
Liechtenstein-Swiss Aspects Syonnis, Liechtensteinische Landesbank
Aktiengese-llschaft Series, Vol.19, 1996, tr. 3.
7 Phán quyết Tournier v. National Provincial and
Union Bank of England khẳng định: “Điều khoản ẩn trong hợp đồng giữa
ngân hàng và khách hàng quy định rằng ngân hàng không được tiết lộ cho
người thứ ba, nếu không có sự đồng ý rõ ràng hoặc ngầm, tình
trạng tài khoản của khách hàng, các giao dịch của khách hàng với ngân
hàng, hay bất cứ thông tin nào liên quan đến khách hàng mà ngân hàng có
được thông qua việc quản lý tài khoản của khách hàng…”, hay trong phán
quyết Peterson v. Idaho First National Bank: “Ẩn ý trong hợp đồng giữa
ngân hàng với khách hàng hoặc người gửi tiền rằng không một thông tin
nào có thể bị ngân hàng hay nhân viên của ngân hàng tiết lộ liên quan
đến tài khoản của khách hàng hay người gửi tiền…”.
8 Khách hàng tiềm năng ở đây được hiểu là những
người đã có những trao đổi thông tin ban đầu với tổ chức tín dụng nhằm
đề nghị tổ chức tín dụng giao kết hợp đồng nhưng hợp đồng này chưa được
giao kết và trước đây họ cũng chưa từng giao kết bất kỳ hợp đồng nào với
tổ chức tín dụng đó.
9 Xem thêm Ross Cranston, chú thích số 7, trang 183.
10 Có thể tìm thấy quy định pháp lý về việc bảo
vệ vấn đề riêng tư và quyền cá nhân hay nghĩa vụ bảo vệ một chủ thể pháp
lý tại Điều 27, 28 Bộ luật Dân sự Thụy Sĩ; Điều 37, 38, 115 Luật Công
ty và cá nhân Liechtenstein. Xem Franco Taisch, chú thích số 9, tr. 5.
11 Xem Franco Taisch, chú thích số 9, tr. 4.
12 Có thể thấy quy định pháp lý về nguyên tắc này tại Điều 22 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành ngày 25/9/1989; Điều 2, Điều 9 Bộ luật Dân sự.
13 Mặt sau của Sổ tiết kiệm của một số ngân hàng
(Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn) có quy định nghĩa vụ này. Sổ tiết kiệm của Ngân hàng Ngoại
thương trước đây có ghi rõ nghĩa vụ này nhưng từ khi chuyển từ Sổ tiết
kiệm sang Chứng nhận tiền gửi có kỳ hạn thì lại không quy định vấn đề
này ở mặt sau nữa.
14 Hợp đồng tín dụng ngắn hạn theo mẫu số 01-TD
của Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP
Bank) trong phần nghĩa vụ của bên cho vay (VP Bank) có quy định: “Đảm
bảo giữ bí mật các thông tin do bên vay cung cấp theo luật
định”. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện nay
chưa quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng giữ bí mật thông tin của
khách hàng là bên vay (xem phần 3. Phạm vi của nghĩa vụ) thì “luật
định” ở đây được hiểu như thế nào và VP Bank có nghĩa vụ giữ bí mật các
thông tin của Bên vay do VP Bank tự thu thập được hay không?
15 Vấn đề bảo vệ quyền riêng tư của pháp nhân
được thừa nhận theo pháp luật của nhiều quốc gia. Ví dụ: Khoản 3 Điều 10
Hiến pháp Liên bang Đức; Điều 115 Luật công ty và cá nhân
Liechtenstein.
16 Xem khoản 3 Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; khoản 7 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng.
17 Xem Điều 7 và Điều 14 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
18 Xem khoản 4 Điều 5 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP;
Điều 49 – Thu thập chứng cứ – Bộ luật tố tụng hình sự 1988 (Điều 65 Dự
thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Điều 9 Pháp lệnh Thanh tra cũng
quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của co quan tiến hành tố tụng,
của tổ chức Thanh tra Nhà nước.
19 Xem Điều 19 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 251 Bộ luật hình sự 1999.
20 Xem Điều 40 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Điều 103 Luật các tổ chức tín dụng.
21 Xem Điều 24 Quy chế phát hành và sử dụng séc ban hành kèm theo Nghị định số 30/CP ngày
9/5/1996.
22 Xem thêm E.P.Ellinger, E.Lomnicka, R. Hooley, Modern Banking Law, Oxford University Press,2002, tr. 154 – 156.
23 Xem Điều 6 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP; Điều 10
Quy định về ủy thác và nhận ủy thác cho vay vốn của tổ chức tín dụng
ban hành kèm theo Quyết định số 742/2002/QĐ-NHNN ngày 17/7/2002.
24 Xem khoản 2 Điều 5 và Điều 6 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 1/2004



3:09 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment