Ngô Huy Cương
Trung tâm TT-TV&NCKH – Văn phòng Quốc hội
Ngày 10 tháng 5 năm 1997 đã đánh dấu một sự kiện rất quan trọng trong
công tác xây dựng pháp luật nói riêng và trong khoa học pháp lý nói
chung ở Việt Nam. Đó là việc Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua “ Luật thương mại”.
Sự kiện này là rất quan trọng bởi hai nghĩa. Trước hết là bởi lần đầu
tiên một đạo luật về thương mại của Nhà nước cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở Việt nam, ra đời. Nó khẳng định quyết tâm xây dựng một nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
ở nghĩa thứ hai thì đây cũng là lần đầu tiên một đạo luật ra đời mà tập
trung rất nhiều rắc rối, băn khoăn, trăn trở về mặt lý luận, cũng như
thực tiễn pháp lý. Người ta đặt ra rất nhiều câu hỏi qua sự kiện này,
chẳng hạn như: Có cần thiết phải xây dựng một đạo luật riêng về thương
mại không? Có một ngành luật thương mại độc lập hay không? Ngành luật
này được phân biệt như thế nào với ngành luật kinh tế và ngành luật dân
sự? Nếu có một ngành luật thương mại như vậy thì đối tượng và phạm vi
điều chỉnh của nó là gì? Khi một tranh chấp cụ thể xảy ra thì áp
dụng Bộ luật dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hay Luật thương mại
để giải quyết tranh chấp? Có nên thành lập toà án thương mại thay cho
toà án kinh tế hay không? Ngành luật kinh tế có còn tồn tại nữa hay
không? v….v…
Lẽ dĩ nhiên, những người đặt ra các câu hỏi như vậy cũng hiểu biết
rất rõ rằng trên thế giới hiện nay nhiều quốc gia có những Bộ luật
thương mại nổi tiếng như: Pháp, Đức, Nhật, Hoa kỳ, Czech, Tây Ban Nha,
Bỉ… ở Việt nam trước kia (trong các chế độ cũ) đã từng tồn tại một ngành
luật thương mại và đã có những Bộ luật đồ sộ về thương mại như Bộ luật
thương mại Trung kỳ, Bộ luật thương mại năm 1972 của chính quyền Sài gòn
cũ, hơn nữa trong hệ thống pháp luật quốc tế đang tồn tại một ngành
luật thương mại quốc tế với một loạt các Điều ớc quốc tế như: Công ước
của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế ký kết tại Vienna 1980,
Hiệp ước về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ quốc tế của Liên hiệp
quốc ký kết tại New York năm 1988 v..v. Nhưng việc đặt ra các câu hỏi
này xuất phát từ thực tiễn của Việt nam, cộng thêm thực tiễn
của nhiều nước trên thế giới mà ở đó đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận
hàng thế kỷ về sự tồn tại song song của ngành luật dân sự và ngành luật
thương mại. Cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác, trước kia trong
thời kỳ quan liêu bao cấp, chúng ta đã từng nhấn mạnh đến một ngành luật
đặc trng của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa là “ ngành luật kinh tế”.
Ngành luật này điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
sản xuất,lưuthông, phân phối theo kế hoạch được lập từ một trung tâm
quốc gia, mang tính bắt buộc đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh và các hợp tác xã là những thực thể hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa được lập nên bởi nhà nước hoặc bởi sự hỗ trợ của nhà nước. Các
thực thể này quan hệ với nhau thông qua các hợp đồng kinh tế được ký
kết bắt buộc theo các chỉ tiêu pháp lệnh được phân bổ từ trung tâm đã
nói. Ngành luật này vừa điều chỉnh các quan hệ dọc ( quan hệ giữa cấp
trên và cấp dưới), vừa điều chỉnh các quan hệ ngang (quan hệ giữa các
đơn vị kinh tế cơ sở), với hai phương pháp mệnh lệnh hành chính và thoả
thuận hợp đồng2[1].
Khi các nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị
trường thì hệ thống luật kinh tế trở nên bối rối và đòi hỏi sự thay đổi.
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Tiệp khắc trước kia có một ngành luật kinh tế
phát triển cao trong các nước xã hội chủ nghĩa cũ thì nay Cộng hoà
Czech (một phần lãnh thổ lớn tách ra từ Tiệp khắc) đã có một Bộ luật
thương mại ban hành năm 1991 thay thế. Vậy “luật thương mại” là gì cần phải có câu trả lời rõ ràng, cụ thể.
I. Khái niệm về luật thương mại
Black’s Law Dictionary giải nghĩa rằng “luật thương mại”
(Commercial Law) là thuật ngữ được sử dụng để chỉ toàn bộ một ngành luật
vật chất áp dụng cho các quyền lợi giao dịch và quan hệ của những người
thực hành nghề nghiệp thương mại, buôn bán(commerce; trade; or
mercantile pursuits). Petit Dictionnaire de Droit (Dalloz) giải nghĩa
rằng “ luật thương mại” (Droit de Commerce) là ngành luật tư điều
tiết mối quan hệ giữa các thương nhân hay các hành vi thương mại. Qua
các định nghĩa trong các cuốn từ điển nổi tiếng này, chúng ta thấy có
hai vấn đề lớn cần xem xét là thương nhân và hành vi thương mại.
1. Trên căn bản các quan niệm này, nhiều quốc gia trong khi
xây dựng các đạo luật cũng xác định phạm vi áp dụng của đạo luật đối với
các giao dịch thương mại (hay hành vi thương mại) giữa các chủ thể của
luật thương mại với nhau. Các chủ thể này gồm hai nhóm là “thương nhân” (Trades or Merchants) và “phi thương nhân”
(Non- Traders or Non- merchants). Các thương nhân là chủ thể thông
thường của luật thương mại có quy chế riêng, còn các phi thương nhân chỉ
trở thành chủ thể của luật thương mại khi tham gia giao dịch thương mại
với thương nhân mà hành vi giao dịch này mang tính chuyên nghiệp của
thương nhân, xác định nghề nghiệp của thương nhân.
Loại chủ thể thứ hai có thể gọi là chủ thể đặc biệt hay chủ thể phụ
thuộc của luật thương mại. Có những quan điểm khác biệt, Bộ luật thương
mại Nhật bản điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các thương nhân, giữa
thương nhân và những người khác hoặc những quan hệ thương mại do các
pháp nhân công pháp thực hiện (Điều 2, Điều 3). ở đây đã nhắc đến giao
dịch thương mại giữa các chủ thể hoàn toàn không phải là thương nhân
nhưng vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh
của luật thương mại. Cũng theo cách này, Điều 1 và Khoản 1, Điều 5
của Luật thương mại (Việt Nam) xác định các giao dịch thương mại (hay
hành vi thương mại) bao gồm cả giao dịch giữa thương nhân đều với người
không phải thương nhân nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật thương mại.
Không giống thế, một số nước theo quan điểm tự do thương mại không có
sự phân biệt giữa thương nhân và phi thương nhân. Chẳng hạn như Hoa kỳ,
ngoài mục đích bảo vệ đặc biệt đối với người tiêu dùng và một số mục
đích khác, bất kỳ người nào hoặc thực thể nào giao kết một hợp đồng đều
thuộc phạm vi điều chỉnh của một ngành luật mà không kể là có hay không
có một bên thực hiện công việc thương mại3[2]. ở Hà lan, theo Bộ luật
thương mại năm 1838 có một phần nhỏ phân biệt giữa thương nhân và phi
thương nhân, nhưng sự phân biệt này bị huỷ bỏ bởi một Đạo luật ngày
2/7/1934 và do đó Bộ luật nói trên áp dụng cho tất cả công dân4[3].
2. Việc xem xét một hành vi là hành vi thương mại tỏ ra rất
phức tạp và có nhiều quan điểm hết sức khác nhau. Song ở đây cũng cần
nêu một vài định nghĩa sơ bộ để có thể nói lên luật thương mại là gì.
Khoản1, Điều 2 của Bộ luật thương mại Czech cho rằng: “ Hành vi thương mại (cũng được xem như hành vi của thương nhân) được hiểu là một hoạt động do các thương nhân tiến hành một cách độc lập với danh tính của mình và tự chịu trách nhiệm nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”.
Khoản1, Điều 5 của Luật thương mại Việt nam cũng sử dụng cách thức
định nghĩa như trên, nhưng không làm rõ được các thuộc tính của hành vi
thương mại. Điều khoản này viết: “ Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và ” nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân với các bên có liên quan”.
Theo một cách khác, Luật miễn trừ quốc gia (the States Immunity Act) của Canada định nghĩa: “ Hoạt động thương mại có nghĩa là bất kỳ giao dịch, hành vi hoặc hoạt động cụ thể nào, hoặc bất kỳ phạm vi hoạt động thông thường nào mà bản chất của nó có đặc tính thương mại”.
Bởi sự khó khăn và phức tạp nên, Điều 632 và Điều 633 của Bộ luật
thương mại Pháp đã sử dụng phương pháp liệt kê các hành vi thương mại để
làm rõ nội hàm của khái niệm hành vi thương mại.
Bộ luật thương mại Nhật bản định nghĩa: “Từ thương nhân được sử dụng trong Bộ luật này có nghĩa là một người thực hiện các giao dịch thương mại như một công việc thường xuyên nhân danh bản thân mình” (Điều 4).
Vậy điều đó chứng minh rằng khái niệm thương nhân và hành vi thương mại
(hay nói cách khác là giao dịch thương mại) là hai khái niệm có mối
quan hệ gắn bó không thể tách rời. Do đó, cần phải làm rõ cả hai khái
niệm này trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Hành vi thương mại
có tính chất khách quan và chúng ấn định nghề nghiệp của thương nhân,
hay nói cách khác, chúng là dấu hiệu cơ bản để nhận rõ thương nhân, nếu
họ lấy hành vi đó làm hoạt động thường xuyên của mình. Nhưng khi một
hành vi không có bản chất thương mại được thương nhân thực hiện trong
khi hành nghề thì cũng được coi là hành vi thương mại.
Khái niệm hành vi thương mại và khái niệm giao dịch thương mại ở đây
được sử dụng đồng nhất. Chúng đều là sự vận động của chủ thể nhằm những
mục đích nhất định. Về phương diện pháp lý, chúng đều làm phát sinh
những hậu quả pháp lý nhất định. Khi ta nói hành vi mua bán kiếm lời thì
cũng có nghĩa là giao dịch mua bán kiếm lời. Tiếng Pháp thường sử dụng
thuật ngữ “ Actes de Commerce”(hành vi thương mại) 5[4]. Tiếng Anh
thường sử dụng thuật ngữ “Commercial Transaction” (giao dịch thương mại)
6[5].
3. Vậy có thể nói, luật thương mại là một ngành luật tư điển hình trong hệ thống pháp luật quốc gia điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân với các chủ thể khác hoặc giữa các chủ thể khác với nhau có liên quan đến hoạt động thương mại, hoặc các hành vi thương mại.
Định nghĩa này mang tính bao quát mà không phải là đúng hoàn toàn cho
mọi trường hợp hoặc ở mọi quốc gia. Nó chỉ đúng từng phần với sự lựa
chọn phạm vi điều chỉnh của luật thương mại ở từng quốc gia. Kể từ thời
La mã cổ đại cho đến ngày nay, hầu hết các nền tài phán theo hệ thống
pháp luật bắt nguồn từ Luật La mã đều có sự phân biệt giữa luật công và
luật t. Trong đó luật dân sự và luật thương mại là những ngành luật tư
điển hình. Sự phân chia này đã làm ảnh hưởng tới bốn vấn đề lớn như:
- Tổ chức tư pháp;
- Tính chất của học thuyết pháp lý;
- Phương thức giảng dậy pháp lý7[6]; và
- Xây dựng các đạo luật.
Không bàn sâu về sự phân chia này và các hệ quả của nó, nhưng có thể
hiểu rằng luật tư theo nghĩa cổ điển xác định, điều chỉnh các quyền lợi
tư của các cá nhân, tổ chức không có tính chất công quyền, nên luật tư
chỉ có tính chất giải thích cho ý chí của các đương sự. Chính sự phân
biệt này cũng góp phần xác định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh của
luật thương mại. Phần về phương pháp điều chỉnh của luật thương mại sẽ
đề cập lại về vấn đề này.
ở các nước theo hệ thống Common Law, sự phân chia giữa luật công và
luật t, luật thương mại và luật dân sự không được đặt ra từ xa, nhưng
trong học thuật và giảng dạy, nghiên cứu, người ta vẫn đề cập tới. Đặc
biệt là ở Mỹ (một nước theo Common Law) đã pháp điển hoá luật thương mại
thành Bộ luật thương mại nhất thể (UCC) được nhiều Tiểu bang ghi nhận.
Trong những nước theo Common Law thường có những ấn phẩm mang tên “Business Law” mà
được dịch ra tiếng Việt là “Luật kinh doanh”, trong đó nói đến nhiều
vấn đề liên quan tới thương mại từ các giao dịch thương mại, tổ chức
kinh doanh cho tới thẩm quyền của toà án, luật lệ về tài sản, chế tài
hình sự, các hành vi cản trở kinh doanh, gian lận thương mại, bảo vệ
người tiêu dùng, chuyển giao công nghệ, đầu t, chống độc quyền… Song
Business Law không phải là
một ngành luật mà là một lĩnh vực pháp luật về kinh doanh, có nghĩa
là tổng thể các quy phạm pháp luật, bao gồm các chế định của cả luật tư
và luật công điều chỉnh việc tổ chức, hoạt động thương mại và các hoạt
động khác có liên quan. Đặc biệt là trong các ấn phẩm về luật kinh
doanh, người ta thường đề cập đến phần phân loại pháp luật
(Classifications of Law) thành luật vật chất và luật thủ tục; luật hình
sự và luật dân sự; luật công và luật t; luật thành văn và luật không
thành văn; thông luật và luật công bình…8[7].
Mặc dù các thông tin kể trên biểu lộ sự phức tạp cho việc chứng minh
về một ngành luật thương mại độc lập, song chúng cũng cho thấy rằng việc
phân biệt giữa các ngành luật là cần thiết để làm đơn giản hoá không
chỉ cho việc xây dựng pháp luật mà còn cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
áp dụng pháp luật vào thực tiễn đời sống. Hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa cũng đã hàm chứa quan niệm về phân chia ngành luật giống với hệ
thống Civil Law (hay còn gọi là hệ thống pháp luật bắt nguồn từ luật La
mã). Cho nên việc chứng minh cho tính độc lập của luật thương mại là cần
thiết khi nghiên cứu đối tượng, phạm vi điều chỉnh của nó.
II. Phương pháp điều chỉnh của luật thương mại
1. Hiện nay, người ta vẫn biết rằng luật dân sự và luật thương mại là
những ngành luật tư điển hình, mặc dù ranh giới và tiêu chí phân biệt
giữa luật công và luật tư còn mang lại nhiều tranh luận. ở phần khái
niệm về luật thương mại, chúng tôi đã đề cập đến việc phân loại này để
làm rõ thêm cho định nghĩa luật thương mại, nhưng trong phần này việc
phân loại lại được đề cập lại để nói về phương pháp điều chỉnh của luật
thương mại.
Trong khi bàn về việc xây dựng Bộ luật dân sự Việt nam, GS.TS. Đào
Trí úc có nói rõ sự phân biệt luật tư và luật công là sự phân biệt quan
trọng về đối tượng và phạm vi điều chỉnh 9[8].
Tại đây, ông còn nhấn mạnh tới một tiêu chí phân chia luật công và
luật tư theo phương pháp điều chỉnh pháp luật. Phương pháp bắt buộc và
phục tùng là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật công và phương
pháp bình đẳng pháp lý là phương pháp điều chỉnh đặc trng của luật tư.
Điều đó khiến người ta suy luận ngợc lại rằng những ngành luật được
xếp vào luật tư thì đều có phương điều chỉnh đặc thù là phương pháp bình
đẳng, tự do cam kết, thoả thuận.
Kể từ thời Justinian (La mã), hầu hết các nước theo hệ thống
Civil Law đều có sự phân biệt giữa luật công và luật t. Sự phân chia này
đã làm ảnh hưởng tới nhiều vấn đề pháp lý.
(1). Đối với tổ chức tư pháp
Các nước theo hệ thống Civil Law thông thường có hai hệ thống toà án
để thi hành luật công và luật t. Trước hết, luật dân sự và luật thương
mại được thi hành ở các toà án thường. Luật hành chính và luật hiến pháp
là những ngành luật công điển hình được thi hành trước hết tại các toà
án hành chính mà có thể được chia thành các toà chuyên trách như toà
thuế vụ,
toà an ninh xã hội …
(2). Đối với học thuyết pháp lý
Học thuyết pháp lý lục địa ( Civil Law) nhấn mạnh tới sự phân biệt
giữa luật công và luật tư như một phương tiện tạo nên khái niệm tổng
quát về luật lệ. Các học thuyết đều cho rằng luật tư được pháp điển hoá
để bảo vệ tài sản tư và nguyên tắc tự do khế ớc thông qua việc điều
chỉnh sự vi phạm. Chức năng duy nhất của nhà nước trong lĩnh vực này là
công nhận và luôn tôn trọng tài sản tư và quyền hợp đồng. Việc thực hiện
chức năng này của nhà nước bằng cách đa ra hình thức trọng tài, trung
gian khi có tranh chấp giữa các bên tư nhân. Khác với luật t, luật công
thường không pháp điển hoá ở mức độ cao mà tồn tại để hỗ trợ các “lợi ích công cộng”. Điều này dẫn đến hệ quả là nhà nước hay quốc gia được xem như một bên và
không phải là trọng tài mà là đại diện cho một quyền lợi được xem là
cao hơn quyền lợi tư trong tranh chấp xảy ra. Các quyền lợi này là các
lợi ích công cộng.
Các học giả theo Civil Law đã sử dụng việc phân chia này để phân tích
một cách nghiêm túc học thuyết về quyền lực. Các ngành lập pháp, hành
pháp và tư pháp không thể thực hiện chức năng của nhau. Ví dụ hệ thống
toà án tư và toà án công đã nói lên phần nào sự phân biệt này. Các thẩm
phán công pháp không được xét xử các vụ việc tư và họ được coi như các
công chức của ngành hành pháp.
(3). Đối với giảng dạy và đào tạo pháp lý
Các luật gia công pháp được đào tạo như những công chức hành chính
chứ không được đào tạo như luật sư bào chữa. Họ phải chú trọng tới các
môn học như khoa học chính trị, kinh tế cũng như luật hiến pháp và luật
hành chính 10[9]….
(4). Đối với xây dựng pháp luật
Bởi các vấn đề pháp lý nói trên, các nước theo Civil Law thường xây
dựng các bộ luật lớn trong lĩnh vực luật tư mà biểu hiện của nó là trong
các bộ luật này có sự phân biệt rõ ràng giữa các ngành luật. Sự phân
biệt giữa luật công và luật tư rất ít ảnh hưởng tới các nước theo hệ
thống Common Law có thể vì các lý do :
Thứ nhất,
sự phân biệt này ít có ý nghĩa trong thời kỳ phong kiến ở Anh, giai
đoạn đầu của sự phát triển common law, bởi vì các quyền công và tư được
xác định thông qua các quyền lợi về tài sản, nhưng không có sự phân biệt
giữa sở hữu tài sản và các cơ quan công theo kiểu ở các nước theo Civil
Law;
Thứ hai,
có một hệ thống toà án trở thành nơi xem xét lại các hoạt động lập
pháp, hành pháp, kể cả trong tranh chấp tư, do vậy không có sự phân biệt
hoàn toàn về quyền lực theo kiểu Châu Âu lục địa;
Thứ ba,
các học giả Mỹ từ thủa ban đầu đã có khuynh hớng lờ đi sự phân biệt và xem như không cần thiết cho xu hớng tổng hợp
của các quyết định phán xử.
Nhưng gần đây, các học giả theo hệ thống Common Law cho rằng sự phân
chia luật công và luật tư là cần thiết. Họ quan niệm rằng luật tư bao
gồm luật về trái vụ và luật về tài sản.
Vậy qua đây, có thể thấy rằng luật thương mại có các đặc tính của luật tư và có phương pháp điều chỉnh đặc trng của luật t.
2. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật, trước hết là cách sử
dụng pháp luật để mô hình hoá, điển hình hoá và định hớng các quan hệ xã
hội và nó bao gồm:
- Xác định địa vị pháp lý của các bên trong quan hệ xã hội đã được điều chỉnh hoá, mô hình hoá;
- Xác định cơ sở phát sinh và biến đổi hoặc chấm dứt tồn tại của các quan hệ pháp luật;
- Xác định tính chất của các quyền và nghĩa vụ của chủ thể;
- Xác định các biện pháp tác động pháp lý đối với những trường hợp vi
phạm hoặc không thực hiện nghĩa vụ chủ thể, khả năng, tính chất và mức
độ của các chế tài tương ứng;
- Xác định những biện pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của chủ thể 11[10].
Ngành luật thương mại có một phương pháp điều chỉnh riêng là sự kết
hợp các yếu tố điều chỉnh chung nêu trên theo đặc trng của các quan hệ
xã hội mà luật thương mại bao quát, tức là những biện pháp và cách thức
mà nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ tài sản giữa các thương
nhân và những chủ thể khác khi thực hiện các hành vi thương mại theo bản
chất. Các thương nhân hoặc các chủ thể khác tham gia các quan hệ thương
mại đều là những thực thể độc lập, bình đẳng với nhau về tổ chức và tài
sản, không có quan hệ phụ thuộc trên dưới.
Chính yếu tố này làm cho các thực thể phải thoả thuận với nhau để
cùng có lợi. Vì mu cầu lợi ích riêng của mình, họ phải tự định đoạt, tự
do cam kết, thoả thuận để xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ của
mình. Nhưng lẽ tất nhiên là sự tự định đoạt và tự do cam kết, thoả thuận
không trái với trật tự công cộng, đạo đức xã hội, không vi phạm các
điều
cấm và quyền lợi của người thứ ba.
Theo học thuyết về luật thực định (droit positif) thì các quy tắc
trong luật thực định không có cùng một sức cưỡng chế đồng nhất và có thể
được phân thành ba loại:
Thứ nhất Là luật cưỡng chế (lois imperatives);
thứ hai là luật giải thích (lois interprétatives);
thứ ba là luật quy định (lois dispositives). Các quy tắc của luật thương mại chủ yếu là thuộc phân loại thứ hai nhằm
giải thích cho ý chí của các đương sự. Những quy tắc luật này thường
thấy trong chế định về khế ớc. Nếu khế ước không làm rõ quyền và nghĩa
vụ của các bên thì người ta có thể căn cứ vào luật để xác định. Phân
loại thứ hai gần giống với phân loại thứ nhất cũng thường tìm thấy trong
luật thương mại. Và các quy tắc này cũng được áp dụng trong trường hợp
các đương sự không ấn định rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Nhưng các quy
tắc này không được coi là biểu thị ý chí của các
đương sự. Ví dụ dù không ấn định tỷ lệ được hưởng lợi nhuận thì thành
viên công ty vẫn được hưởng theo tỷ lệ góp vốn. Phân loại thứ nhất cũng
xuất hiện trong luật thương mại khi liên quan đến trật tự công cộng mà
nhà nước can thiệp vào. Ví dụ không được kinh doanh những ngành nghề mà
nhà nước cấm hay trái với đạo đức xã hội… Khi quyền lợi của các bên bị
vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình hoặc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc phải bồi thường
hoặc phạt; trong trường hợp có gian lận thương mại mà đã được luật hình
bảo vệ thì phải chịu tránh nhiệm hình sự. Người ta cho rằng chế tài
trong ngành luật tư hoàn hảo hơn các chế tài của ngành luật công. Khi có
một bản án đã được tuyên buộc đương sự trong vụ tranh chấp có tính chất
luật tư phải tuân thủ, nếu không thì sẽ bị cưỡng chế. Đối với luật
công, khi quốc gia là một bên chủ thể thì việc cưỡng chế thi hành sẽ khó
khăn hơn.
Cơ chế điều chỉnh của pháp luật thương mại chủ yếu nhằm thúc đẩy các
hành vi tích cực chủ động và sáng tạo của các chủ thể trong việc thiết
lập và thực hiện các quan hệ theo định hướng của nhà nước.
Vấn đề giải quyết tranh chấp dựa trên phương pháp hoà giải, trọng
tài. Các bên tự lựa chọn và định đoạt nội dung, cách thức giải quyết các
tranh chấp phát sinh. Các bên có thể tự lựa chọn trọng tài hay toà án
giải quyết tranh chấp, hoặc có thể lựa chọn luật áp dụng cho việc giải
quyết tranh chấp, thậm chí thoả thuận lựa chọn chứng cứ…
Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng nhà nước rất ít can thiệp theo kiểu luật công tới các quan hệ thương mại.
Có quan điểm cho rằng do khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên nhà nước sử dụng cả “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”
để tác động vào quá trình kinh tế- xã hội, nhất là trong các nền kinh
tế hỗn hợp. Nghiên cứu mô hình kinh tế của các nước trên thế giới, người
ta thấy dù là mô hình kinh tế của Mỹ hay mô hình kinh tế thị trường xã
hội của Đức hay mô hình kinh tế chuyển đổi ở các nước xã hội chủ nghĩa
cũ, thì vai trò của nhà nước tác động vào quá trình kinh tế- xã hội là
rất quan trọng, nhưng không thể đặt thứ yếu vai trò của tính tự tổ chức,
tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường. Viết về kinh tế chuyển đổi và
hội nhập của các nước Trung và Đông Âu, các chuyên gia kinh tế nổi
tiếng tư bản đã xác định mục tiêu của kinh tế thị trường ở các nước này
như sau: “…nền kinh tế thị trường hiện đại, công bằng về mặt xã hội và bền vững về
môi trường, và sự hội nhập đầy đủ của các quốc gia ở Châu âu “.12[11]
Sự công bằng về mặt xã hội, bền vững về môi trường và hội nhập đầy đủ
chỉ có thể làm được khi có sự can thiệp của nhà nước. Các chính sách hay
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống độc quyền có tác
động tới hoạt động thương mại, nhưng vốn dĩ không phải là các quy tắc
của luật thương mại. Vậy tỷ trọng các phương pháp điều tiết của luật tư
là hoàn toàn áp đảo trong luật thương mại.
3. Khi nghiên cứu “Luật thương mại” của Việt nam
có nhiều quan điểm cho rằng nếu nói luật thương mại hoàn toàn là một
ngành luật tư thì khó giải thích cho các quy định hàm chứa việc tuyên bố
các chính sách từ Điều 10 tới Điều 16 và Chương V- Quản lý nhà nước về thương mại. ở
đây cần phải nhấn mạnh rằng Đạo luật về thương mại của Việt nam là một
đạo luật thương mại không nguyên nghĩa, bởi phạm vi điều chỉnh quá hẹp,
không xác định được ranh giới với luật dân sự và luật kinh tế… Và hơn
nữa, cần phải phân biệt giữa hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống
văn bản pháp luật hay nói cách khác là phải phân biệt mặt khách quan
của pháp luật và mặt chủ quan của pháp luật để nhận diện một cách chính
xác “Luật thương mại” của Việt nam13[12]. Trong khoa học pháp lý,
người ta căn cứ vào tính khách quan và chủ quan để chia thành hai loại
nguồn của pháp luật là nguồn sáng tạo (les sources créatrices) và nguồn hình thức (les
sources formelles). Nguồn sáng tạo bao gồm các yếu tố xã hội hay mối
liên hệ nội tại của các quan hệ xã hội làm phát sinh ra nhu cầu điều
chỉnh pháp luật. Người ta còn gọi loại nguồn này là nguồn chất liệu (les sources matérielles). Luật phát sinh từ các yếu tố này gọi là
luật khách quan (le droit objectif). Nguồn hình thức này không
tạo ra luật mà chỉ nhận thức, xác nhận các thuộc tính của nguồn chất
liệu. Việc xây dựng một đạo luật chính là cách thức tìm tòi và tiếp cận
tới luật khách quan. Nhưng luật khách quan chỉ được sử dụng khi đánh giá
và xem xét sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống của các văn bản quy phạm
pháp luật, tục lệ, án lệ…Vậy, phải nói rằng “Luật thương mại” của
Việt nam cha đáp ứng được đòi hỏi thực của cuộc sống và cha thấm nhuần
được tính cấu trúc của hệ thống pháp luật bao gồm sự phân chia các ngành
luật mà nó chỉ giải quyết các vấn đề trong phạm vi chức trách quản lý
nhà nước của Bộ thương mại Việt nam. Tuy nhiên việc giải quyết tranh
chấp các khế ớc mua bán hàng hoá và dịch vụ mua bán hàng hoá được quy
định trong Luật thuộc thẩm quyền của trọng tài hoặc toà
án. Cũng phải thừa nhận rằng, giống như các đạo luật khác của Hoa kỳ,
Bộ luật thương mại nhất thể (UCC) của nước này cũng có một điều khoản
tuyên bố chính sách của Nhà nước Hoa kỳ đối với lĩnh vực xã hội mà Bộ
luật này điều chỉnh. Song, chính sách được ghi nhận ở Bộ luật (UCC) này
hoàn toàn mang tính chất của luật t, có nghĩa là nhà nước thừa nhận tính
chất luật tư của luật thương mại như: đơn giản hoá, rõ ràng hoá và hiện đại hoá luật điều chỉnh các giao dịch thương
mại; cho phép mở rộng thực tiễn thương mại thông qua tục lệ và thoả thuận của các bên; thống nhất pháp luật trong các nền tài phán khác nhau (Article 1, Part 1, Đ 1-02).
Đây thực chất là các nguyên tắc cơ bản của luật tư nói chung và luật
thương mại nói riêng. Qua đấy, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung “ Luật thương mại” của Việt Nam là rất cần thiết trong giai
đoạn hiện nay
*************************************************
2[1]. Xem TS. Nguyễn như Phát -“ Lý luận chung về luật kinh tế ”
trong cuốn” Giáo trình Luật kinh tế Việt nam”- Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà nội- 1997- Tr 5-40.
3[2]. Xem “ Digest of Commercial Laws of the World”- Oceana
Publication, INC. New York – London – Rome 1994, “ The Commercial Laws
of United States” by Lyda L. Laing.
4[3]4[3]. Xem “ Digest of Commercial Laws of the World”- Oceana
Publication, INC. New York – London – Romme – 1994, “ The Commercial
Laws of Netherlands” by The Late J.C.S Warendoff, F.I.L.
5[4]. Xem thêm Điều 632, Điều 633 của Bộ luật thương mại Pháp.
6[5]. Xem thêm Điều 4 của Bộ luật thương mại Nhật bản – Bản dịch
tiếng Anh chính thức – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Hà nội 1994 –
trong cuốn “ Bộ luật thương mại và Luật những ngoại lệ đặc biệt về kiểm
soát của Nhật bản”.
7[6]. Xem Richard J. Pierce, Jr, Sidney A. Shapiro, Paul R. Verkinl- “
Administrative Law and Process” – Mineola, New York – The Foundation
Press, Inc – 1985.
8[7]. Xem A. James Barnes, Terry Morehead Dworkin, eric L. Richards –
“ Law for Bussines, Richard D. Irwin, Inc.1991; Robert W. Emerson, John
W. Hardwicke- “ Bussiness Law”- Barron’s Educational series, Inc.1997,
Paul Latimer Australian Bussiness Law”- 1987, H .R. Light- “The Legal
Aspects of Business”- Sir Issac Pitman & Sons Ltd- London 1967
9[8]. Xem GS-TS. Đào Trí “Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật dân sự
Việt nam”- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số chuyên đề năm 1997.
10[9]. Xem Richard J.Pierce, JR; Sidney A.Shapiro; Paul
R.Verkuil-\”Administrative Law and Process\”- Mineola, New York- The
Foundation Press, Inc. 1985.P2-7.
11[10]. Xem “Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và Pháp luật\”- NXB Chính trị Quốc gia 1995.
12[11]. Xem TS.Lê Minh Thông \”Hệ thống pháp luật\” trong cuốn
\”Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và Pháp luật\”- NXB Chính trị
Quốc gia- Hà nội-1995 tr.182-188.
13[12]. Xem John Eatwell- Michael Ellman – Mats Karlsson – D. Mario
Nuti – Judith Shapiro – ” Chuyển đổi và hội nhập – Định hướng tương lai
của các nước Trung và Đông Âu” – NXB Chính trị Quốc gia – Tr. 17
===========================
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SÔ 3/2000
0 comments:
Post a Comment