THS. LÊ THỊ LỢI – Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
Trong những năm từ 2007
trở lại đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngành Ngân hàng
Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc và đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó, những
bất cập trong quản lý của các ngân hàng cũng như các khó khăn cũng nảy
sinh trên nhiều mặt hoạt động, trong đó có vấn đề về vốn chủ sở hữu – là
cấu phần vốn vô cùng quan trọng trong nguồn vốn hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Do đó, đòi hỏi cần có những thay đổi mạnh mẽ trong nhìn
nhận và quản lý vốn chủ sở hữu ngân hàng từ phía cơ quan quản lý nhà
nước cũng như từ các ngân hàng thương mại.
1. Phát triển kinh tế và sự phát triển của các ngân hàng thương mại
Đánh giá về bối cảnh chung của hoạt động ngân hàng
trong hơn 5 năm qua, có thể nói nền kinh tế đã chuyển qua những thái cực
khác nhau trong giai đoạn này, một phần do tác động của nền kinh tế
toàn cầu, và một phần do các yếu tố nội tại của nền kinh tế trong nước
nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng. (Biểu đồ 1) Ngành ngân hàng với
các chức năng vốn có của mình đã tham gia sâu sắc và tích cực trong phát
triển kinh tế. So sánh giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng
trong những năm qua, có thể thấy tín dụng ngân hàng là một trong những
nhân tố vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh tăng trưởng nền kinh tế, Việt Nam còn gặp
phải rất nhiều vấn đề về kinh tế vĩ mô như cơ cấu tăng trưởng, lạm phát,
công ăn việc làm và cạnh tranh quốc gia. Lạm phát gia tăng và tác động
xấu toàn diện đến mọi mặt kinh tế xã hội, đi kèm với với lạm phát là
việc tăng nóng và bất hợp ý của tín dụng ngân hàng (Xem Biểu đồ 2).
Tăng trưởng nóng và bất hợp lý của tín dụng của các
ngân hàng là nguyên nhân tăng trưởng nhanh của tổng tài sản các ngân
hàng trong những năm 2008 – 2011, và có thể nói điều này là hệ quả trực
tiếp từ việc tăng vốn điều lệ/vốn chủ sở hữu rất mạnh của các ngân hàng
trong những năm qua. Các ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu cho mục đích đầu
tư tăng năng lực hạ tầng (đầu tư xây dựng trụ sở, đầu tư cho công nghệ,
mở rộng mạng lưới hoạt động…) và tăng vốn để tăng năng lực tài chính
nhằm nâng cao cạnh tranh và đảm bảo các hệ số an toàn vốn (hệ số CAR)
đáp ứng cho việc ngân hàng tăng trưởng nóng tín dụng và tài sản có rủi
ro khác trong tổng tài sản. Chúng ta còn nhớ, vào thời điểm Việt Nam
được chấp thuận gia nhập WTO vào năm 2007, khi đó các cơ quan quản lý
nhà nước và ngành Ngân hàng dự đoán: sẽ có một cuộc xâm nhập của các
ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam khi Việt Nam mở cửa ngành Ngân hàng
vào năm 2011, vì thế các ngân hàng thương mại trong nước đã có cuộc đua
tăng vốn điều lệ/vốn chủ sở hữu nhiều hơn nữa nhằm đảm bảo năng lực tài
chính, giữ thị phần trước sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài
thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Yêu cầu tăng vốn đối với các ngân
hàng Việt Nam chủ yếu xuất phát từ quy mô về tài sản và vốn chủ sở hữu
của các ngân hàng Việt Nam là quá nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực
và trên thế giới, và khuyến nghị của các nhà kinh tế cũng như của các
cơ quan quản lý nhà nước về sáp nhập các ngân hàng nhỏ để tạo ra những
ngân hàng lớn hơn đã không được thực hiện vào thời gian đó.
XEM TOÀN VĂN BÀI VIẾT TẠI ĐÂY
SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 2+3/2013
Trích dẫn từ: Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
0 comments:
Post a Comment