NGUYỄN VĂN TOẢN – NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Tiền giả là
vấn nạn mà tất cả các nước trên thế giới đều phải đối mặt, tuy mức độ và
tính chất có thể khác nhau. Đặc biệt, trong điều kiện khoa học kỹ thuật
phát triển ở trình độ cao, tạo nhiều cơ hội cho các cơ quan phát hành
tiền ứng dụng công nghệ bảo an hiện đại trên đồng tiền thì bên cạnh đó
cũng tạo khả năng để tội phạm sản xuất các đồng tiền giả có kỹ thuật
tinh vi, thời gian để làm giả một đồng tiền cũng nhanh hơn. Kinh nghiệm
của nhiều nước cũng cho thấy, thủ đoạn tiêu thụ tiền giả của bọn tội
phạm cũng ngày càng tinh vi, phức tạp và có xu hướng liên kết, móc nối
giữa các tổ chức tội phạm tại nhiều nước. Tại Việt Nam, có thể nói là
không có các ổ nhóm tội phạm sản xuất tiền giả nhưng tình hình tội phạm
buôn bán, tiêu thụ tiền giả cũng diễn ra rất phức tạp.
Từ tính chất phức tạp và nghiêm trọng của tội phạm
tiền giả, ở tất cả các nước, hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán,
tiêu thụ tiền giả đều rất nặng và hoạt động phòng, chống loại tội phạm
này được quan tâm đặc biệt. Có nước, chẳng hạn như Mỹ, thành lập hẳn một
cơ quan chuyên chống tiền giả hoặc có nước thành lập các uỷ ban phòng
chống tiền giả với sự tham gia của nhiều cơ quan liên quan. Dù cách tổ
chức hoạt động phòng, chống tiền giả ở các nước có thể khác nhau nhưng
nhìn chung có hai cơ quan có vai trò rất quan trọng trong hoạt động này
là cảnh sát và cơ quan phát hành tiền. Ở Việt Nam, theo quy định hiện
hành, Bộ Công an chịu trách nhiệm chính, toàn diện trong công tác đấu
tranh phòng, chống tiền giả; các cơ quan phối hợp chính là Ngân hàng Nhà
nước, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính. Phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến
vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong phòng, chống tiền giả.
Liên quan đến phòng, chống tiền giả, nhìn chung Ngân
hàng Trung ương của nhiều nước có nhiệm vụ: nghiên cứu thiết kế, sản
xuất các đồng tiền với các kỹ thuật bảo an có khả năng chống giả cao; tổ
chức thông tin, tuyên truyền để người dân hiểu và nắm được các đặc điểm
của đồng tiền thật, qua đó có thể phân biệt được tiền thật/tiền giả; tổ
chức đào tạo nghiệp vụ nhận biết, giám định tiền; giám định tiền cho
các tổ chức và cá nhân… Về cơ bản Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng có
các nhiệm vụ như trên. Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã thực
hiện khá hiệu quả các nội dung trên và đã góp phần quan trọng trong việc
ngăn chặn nạn tội phạm tiền giả ở Việt Nam.
Thứ nhất, đã đưa vào lưu thông Bộ tiền mới để nâng
cao khả năng chống làm giả của đồng tiền trong lưu thông, góp phần bảo
vệ tốt hơn an ninh tiền tệ quốc gia và lợi ích của nhân dân. Thiết kế
đồng tiền là một nghiệp vụ của cơ quan phát hành và có vai trò quan
trọng nhất trong việc đảm bảo khả năng chống giả của đồng tiền. Với bộ
tiền mới phát hành vừa qua, sự kết hợp giữa thiết kế mẫu hiện đại, chất
liệu, công nghệ in tiền mới và tăng cường các yếu tố bảo an với công
nghệ tiên tiến đã tạo ra khả năng chống giả của đồng tiền polymer cao
hơn so với các đồng tiền cotton đang lưu hành; đặc biệt, trong các đồng
tiền có nhiều yếu tố bảo an công cộng, với đặc điểm dễ nhận biết bằng
biện pháp thông thường như quan sát, kiểm tra bằng mắt, bằng tay… hỗ trợ
tích cực cho người tiêu dùng trong phòng ngừa rủi ro nhận phải tiền
giả. Tuy nhiên, kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, vì mục tiêu chống giả,
trung bình khoảng 7 đến 10 năm cần phải đưa ra một sê ri tiền mới, bởi
sẽ là ảo tưởng khi cho rằng chúng ta có thể làm ra các đồng tiền mà tội
phạm không thể làm giả. Do vậy, việc thiết kế đưa ra các mẫu tiền mới
phải được thực hiện thường xuyên, hầu như sau khi phát hành một sê ri
tiền mới thì lại bắt tay vào thiết kế một bộ tiền khác và thông thường
cần khoảng 3 năm để thiết kế một bộ tiền. Mặt khác, cơ quan phát hành
phải thường xuyên nghiên cứu, cập nhật các tiến bộ kỹ thuật trong công
nghệ bảo an để chọn lọc ứng dụng trên đồng tiền. Đây là vấn đề đòi hỏi
Ngân hàng Nhà nước phải quan tâm trong thực hiện chức năng phát hành
tiền của mình.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước đã thường xuyên thông
tin, giới thiệu để công chúng biết rõ về đồng tiền thật. Theo kinh
nghiệm quốc tế, yếu tố rất quan trọng trong phòng, chống tiền giả là
người dân phải nắm được các đặc điểm kỹ thuật, nhất là yếu tố bảo an
trên đồng tiền thật và phải có thói quen quan sát, kiểm tra đồng tiền
một cách cẩn thận trong giao dịch hàng ngày. Do vậy, hoạt động thông
tin, tuyên truyền giới thiệu cho công chúng các đặc điểm bảo an trên
đồng tiền được Ngân hàng Nhà nước thực hiện rất rộng rãi. Trong những
năm vừa qua, khi phát hành tiền mới Ngân hàng Nhà nước đã phát hành các
áp phích, tờ rơi để giới thiệu đồng tiền (dán ở nơi công cộng, phân phát
cho nhân dân…), đồng thời thông qua hệ thống báo đài trong cả nước để
thông tin, giới thiệu về đồng tiền với nhiều hình thức. Trong công tác
thông tin về đồng tiền, đợt phát hành tiền mới vừa qua đã có bước đổi
mới về tuy duy thông tin, thay cho cách làm chỉ công bố vào đúng ngày
phát hành như trước đây, nay đã chủ động giới thông tin rộng rãi về đặc
điểm đồng tiền mới trước ngày phát hành từ 2 đến 3 tuần. Cách làm này
vừa tạo thuận lợi cho nhân dân trong việc tiếp nhận đồng tiền mới, vừa
thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước trong quá trình chuẩn bị phát hành. Tuy
nhiên, trong tương lai chúng ta cũng cần tiếp cận đầy đủ hơn nữa với
kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này. Thông thường các nước công bố chủ
trương, mục tiêu phát hành tiền mới khoảng 1 năm và trước ngày phát hành
khoảng 4 tuần công bố đặc điểm của đồng tiền mới để công chúng biết.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang chuẩn bị phát hành
tài liệu “ Tiền Việt Nam và cách nhận biết” giới thiệu các đặc điểm bảo
an của đồng tiền polymer và hướng dẫn người sử dụng tiền cách kiểm tra,
nhận biết tiền thật/tiền giả; tài liệu này cũng cảnh báo về thủ đoạn
tiêu thụ tiền giả của bọn tội phạm và thông tin về quy định của pháp
luật trong phòng, chống tiền giả, bảo vệ tiền Việt Nam để cung cấp cho
nhân dân. Trong tương lai chúng ta cũng cần thực hiện nhiều các hình
thức thông tin khác như nhiều nước đã là, đó là có các chương trình
thông tin học đường mà đối tượng tuyên truyền chủ yếu là trẻ em các
trường tiểu học… để nâng cao hiệu quả công tác này.
Thứ ba, công tác đào tạo nghiệp vụ nhận biết tiền
thật/tiền giả cho cán bộ ngân hàng, Kho bạc Nhà nước được tăng cường cả
về chất lượng và số lượng. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế,
Ngân hàng Nhà nước đã nghiên cứu xây dựng bộ tài liệu đào tạo nghiệp vụ
nhận biết tiền thật/tiền giả cho đối tượng làm nghiệp vụ ngân quỹ của hệ
thống ngân hàng, Kho bạc Nhà nước theo chuẩn mực mà nhiều nước áp dụng
(chủ yếu cũng là giới thiệu các đặc điểm cơ bản của quá trình in tiền,
đặc điểm đồng tiền thật, cách nhận biết các ytếu tố bảo an trên đồng
tiền). Đồng thời, đã tổ chức bộ phận chuyên trách phòng, chống tiền giả
tại Cục Phát hành và Kho quỹ, có nhiệm vụ tập huấn nghiệp vụ này cho hệ
thống ngân hàng. Bộ phận này đã thường xuyên phối hợp với hệ thống chi
nhánh của Ngân hàng Nhà nước tổ chức tập huấn cho cán bộ, nhân viên làm
công tác tiền tệ, ngân quỹ của các ngân hàng, Kho bạc Nhà nước và cả các
lực lượng liên quan của công an, bộ đội biên phòng tại địa phương. Cách
làm này đã kết hợp được kiến thức chuyên sâu của đội ngũ chuyên viên
chuyên trách của Ngân hàng Nhà nước với việc mở rộng đối tượng đào tạo,
qua đó nâng cao được hiệu quả, năng lực nhận biết tiền thật/tiền giả
cũng như các kỹ năng xử lý của nhân viên hệ thống ngân hàng, Kho bạc Nhà
nước khi phát hiện tiền giả. Tuy nhiên, trong tương lai chúng ta cần
tiếp tục đổi mới công tác này theo hướng chuyên nghiệp hơn nữa. Chẳng
hạn, cần học tập kinh nghiệm của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) về
quy định tất cả các nhân viên làm nghiệp vụ ngân quỹ của hệ thống ngân
hàng đều phải có chứng chỉ nghiệp vụ nhận biết tiền thật/tiền giả do
PBOC cấp. Điều đáng quan tâm là, những người mặc dù đã được cấp chứng
chỉ, nhưng nếu trong quá trình làm việc để xảy ra nhiều sai sót hoặc
không tuân thủ đúng các quy định liên quan đến xử lý tiền giả sẽ bị PBOC
thu hồi lại chứng chỉ. Với cách làm như của PBOC sẽ nâng cao được ý
thức trách nhiệm cũng như năng lực của các nhân viên ngân hàng trong
hoạt động phòng, chống tiền giả.
Thứ tư, công tác giám định tiền và thông báo tiền giả
phục vụ nghiệp vụ ngân quỹ trong hệ thống ngân hàng, Kho bạc Nhà nước
được thực hiện trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại. Từ năm
2006, với việc trang bị một hệ thống thiết bị giám định tài liệu hiện
đại, công tác giám định tiền của Ngân hàng Nhà nước đã có tính chuyên
nghiệp rõ rệt. Sự hỗ trợ của hệ thống thiết bị này đã cho ra các sản
phẩm giám định có độ chính xác cao. Từ ứng dụng này, việc thông báo đặc
điểm tiền giả phục vụ nghiệp vụ ngân quỹ trong hệ thống ngân hàng, Kho
bạc Nhà nước cũng được cải tiến từ chỗ chỉ thông báo có tính chất định
tính sang dạng thông tin được lượng hoá, mô phỏng bằng các hình ảnh màu
để phân tích các đặc điểm cần quan sát, kiểm tra để nhận biết tiền giả.
Theo đánh giá của các ngân hàng và các cơ quan chức năng của ngành Công
an, cách thức thông báo tiền giả này của Ngân hàng Nhà nước đã tạo điều
kiện cho tác nghiệp nghiệp vụ kiểm tra, nhận biết tiền thật/tiền giả của
các cơ quan chức năng được nhanh chóng, chính xác.
Với vai trò là cơ quan phát hành tiền, trong những
năm qua công tác phòng, chống tiền giả đã được Ngân hàng Nhà nước thực
hiện khá đồng bộ trên nhiều mặt, sự phối hợp với các cơ quan liên quan,
đặc biệt là lực lượng công an cũng được quan tâm trên tinh thần hợp tác
chặt chẽ, kịp thời… qua đó góp phần tích cực vào việc ngăn chặn, hạn chế
tình hình tội phạm tiền giả tại Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức
rằng, tội phạm tiền giả còn tồn tại lâu dài và thủ đoạn của bọn tội phạm
cũng ngày càng tinh vi, phức tạp. Điều này đỏi hỏi Ngân hàng Nhà nước
cũng như các cơ quan chức năng phải làm tốt nhiệm vụ của mình trong hoạt
động phòng, chống tiền giả, nhưng quan trọng hơn là các hoạt động của
mỗi cơ quan phải được đặt trong sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các
lực lượng, các giải pháp. Từ thực tiễn tình hình tội phạm tiền giả ở
Việt Nam cũng như trên phạm vi quốc tế, để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống tiền giả, hạn chế những nguyên nhân, điều kiện phát sinh,
phát triển hoạt động buôn bán, tiêu thụ tiền giả ở Việt Nam, chúng ta
cần phải có một chương trình phòng, chống tiền giả ở tầm quốc gia, với
sự phối hợp chỉ đạo của các ngành liên quan trong đó ngành Công an là
chủ trì; đồng thời, có sự đầu tư nhân lực, tài chính tương xứng với yêu
cầu của nhiệm vụ này, có như vậy mới có thể từng bước giảm đến mức thấp
nhất tội phạm tiền giả, bảo vệ tốt hơn an ninh đất nước và lợi ích của
nhân dân.
0 comments:
Post a Comment