1. Định nghĩa
Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà
luật pháp bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán. Tiền là
thứ để trao đổi lấy hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang
tính dễ thu nhận (nghĩa là mọi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng).
Tiền là một chuẩn mực chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa
và dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một
vật cụ thể (thí dụ tiền giấy** hoặc
tiền kim loại) hay dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một tài
khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán được một cộng đồng công
nhận trong một vùng phổ biến nhất định. Một phương tiện thanh toán trên
nguyên tắc là dùng để trả nợ. Khi là một phương tiện thanh toán tiền là
phương tiện trao đổi chuyển tiếp vì hàng hóa hay dịch vụ không thể trao
đổi trực tiếp cho nhau được.
Người ta cũng có thể nhìn tiền như là vật môi giới,
biến việc trao đổi trực tiếp hàng hóa và dịch vụ, thường là một trao đổi
phải mất nhiều công sức tìm kiếm, thành một sự trao đổi có 2 bậc.
Trong kinh tế học, có một số khái niệm về tiền.
-
Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại.
-
Tiền gửi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt. Chúng có thể dẽ dàng chuyển thành tiền mặt.
-
Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái phiếu, kỳ phiéu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ.
2. Hình thành
Tiền hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng
để đơn giản hóa thương mại. Nếu như trước kia tiền thường được kiên kết
với các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị thí dụ như đồng tiền
bằng vàng thì tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó
không có giá trị (tiền giấy). Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các
loại tiền khác nhau là tiền tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá
đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày xưa vàng và bạc là các vật bảo
đảm giá trị của tiền tại châu Âu. Ngày nay việc này không còn thông dụng
nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng hóa mà người ta có thể
mua được. Chính vì thế mà khi đưa thêm tiền giấy hay tiền kim loại vào
sử dụng thì tổng giá trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không
được nâng cao thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát.
3. Nguồn gốc và lịch sử của tiền
Tối ưu hóa thương mại
Người ta tin rằng đầu tiên hàng hóa và các dịch vụ được trao đổi trực tiếp với nhau (thương mại trao đổi).
Vì điều này không thực dụng nên hàng hóa và dịch vụ được trao đổi với
các loại hàng hóa khác mà có thể được tiếp tục trao đổi một cách dễ
dàng. Loại hàng hóa là tiền này là những vật có giá trị đẹp hay hữu ích
như bò, lạc đà, lông súc vật, dao, xẻng, vòng trang sức, đá quý, muối và
nhiều loại khác. Khi người ta khám phá ra rằng một số vật không còn
được sử dụng nữa mà chỉ được tiếp tục trao đổi thì các bản sao chép nhỏ
hơn và ít có giá trị hơn của các vật này được sử dụng làm phương tiện
thanh toán. Thuộc về các loại hàng hóa trở thành tiền là các vỏ sò cho
đến khi người Trung Quốc tiến quân vào năm 1950 (chữ “bối” 貝 trong “bảo
bối” 寶貝 chỉ đến con sò).
Đó là các hình thức thanh toán đầu tiên trước khi có tiền. (Tiền trong tiếng La tinh là pecunia bắt nguồn từ pecus
có nghĩa là con bò vì đồng tiền kim loại đầu tiên của La Mã tượng trưng
cho giá trị của một con bò.) Khả năng có thể đếm được, dễ bảo toàn, dễ
vận chuyển đã đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn vật liệu
cũng như khả năng có thể giữ được giá trị. Các thỏi hay sợi dây bằng
đồng thiếc hay bạc đáp ứng được các yêu cầu này vì có giá trị bền vững
và có thể bảo toàn dễ dàng.
Các đồng tiền kim loại đầu tiên được người Lydia ở
phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đúc từ vàng, trong thời gian giữa 640
và 600 TCN, có nhiều kích thước và giá trị khác nhau và được dùng như là
một phương tiện thanh toán để đơn giản hóa việc trả lương cho những
người lính đánh thuê. Một lượng nhất định của các hạt bụi vàng được nấu
chảy thành đồng tiền và sau đó hình của nhà vua được dập nổi lên trên.
Nhà vua người Lydia cuối cùng, Croesus, vì thế mà mang danh là giàu có
vô hạn. Các đồng tiền kim loại này đã làm cho việc thương mại dễ dàng đi
rất nhiều vì chúng có ưu điểm là bao giờ cũng có kích thước, trọng
lượng và hình dáng không thay đổi và thay vì là phải cân thì có thể đếm
được.
Các chỉ trích và phê phán về thuyết cho rằng tiền
hình thành từ thương mại trao đổi xuất phát từ những người đại diện cho
Chủ nghĩa Nợ (tiếng Anh: Debitism), đặc biệt là Paul C. Martin.
Lý luận được đưa ra là sử dụng một vật trao đổi thứ ba trước tiên là sẽ
làm cho việc trao đổi phức tạp thêm. Từ một giao dịch biến thành hai
giao dịch. Điều quyết định chính là chức năng của tiền, dùng để nối tiếp
thời gian giữa nhu cầu cần dùng hàng hóa A và sự sản xuất hàng hóa B.
Vì thế mà tiền ngay từ đầu không phải là hàng hóa và cũng không phải là
một vật trao đổi mà là dấu hiệu cho một mối quan hệ nợ.
Tiền kim loại
Mãi cho đến trong thế kỷ 18 giá trị của các loại tiền
tệ của châu Âu được định nghĩa thông qua lượng kim loại quý. Bên cạnh
việc theo dõi sản xuất trong nước, các xưởng đúc tiền quốc gia còn theo
dõi cả việc đúc tiền của nước ngoài. Một tiền tệ được đánh giá quá cao
hay quá thấp khi đồng tiền được tính trên hay dưới giá trị của kim loại
trong lúc tính toán với các tiền tệ khác trên thế giới.
Việc cố tình mài mòn đồng tiền để lấy bớt đi kim loại
đã tạo nên nhiều vấn đề rất lớn trong việc sử dụng tiền kim loại. Việc
giá trị của các kim loại quý biến động khi so sánh với nhau còn mang lại
nhiều vấn đề lớn hơn. Giá trị của các loại tiền tệ khác nhau, bao gồm
các đồng tiền bằng vàng, bạc và đồng, không thể giữ ổn định khi so sánh
với nhau được. Bạc được mang ra khỏi Tây Ban Nha và Anh vì các thương
gia người Tây Ban Nha và người Anh đánh giá các đồng tiền vàng cao hơn
một ít so với các đối tác thương mại quốc tế của họ, tạo thành một vấn
đề lan rộng khắp trong thương mại quốc tế: Ở châu Á người ta lại không
thấy có lý do gì để đánh giá vàng cao hơn như ở châu Âu. Vì thế mà bạc
được mang đến châu Á để đổi lấy vàng. Giải pháp cho vấn đề này trong đầu
thế kỷ 18 tại Anh là loại tiền tệ về nguyên tắc dựa trên vàng, Ngân
hàng Quốc gia Anh (Bank of England) bảo đảm sẽ trả cho người sở hữu đồng tiền Anh quốc giá trị tương ứng với giá trị của vàng trên thị trường tại mọi thời điểm. (Xem: Kim bản vị).
Các vấn đề của cuộc cải cách này có thể nhìn thấy ngay trước mắt: Làm
sao có thể bảo đảm là ngân hàng không phát hành tiền nhiều hơn là số
lượng tiền được bảo chứng bằng vàng của ngân hàng? Trong thập niên 1730
đã có một cuộc khủng hoảng tín nhiệm và Ngân hàng Quốc gia Anh chỉ được
cứu thoát khi giới đại thương nghiệp của Luân Đôn sẵn sàng gánh vác lấy
sự bảo đảm này. Về mặt khác các thủ đoạn gian lận trong tiền kim loại và
biến động giá trị giữa các loại tiền kim loại trong nước không còn nữa.
Mãi cho đến trong thế kỷ 19 một số tiền tệ thí dụ như
Đô la Mỹ vẫn được bảo chứng bằng vàng và cho đến ngày hôm nay việc hủy
bỏ bảo chứng vàng cũng không phải là một điều tất nhiên.
4. Tiền ngân hàng
Tiền ngân hàng hay còn gọi là tiền ghi nợ đang được lưu thông phổ biến trong các nền kinh tế hiện đại. Một khoản tiền gửi chính là tiền ngân hàng
vì đó là khoản tiền ngân hàng nợ chủ tài khoản. Chủ tài khoản có thể
rút tiền mặt hoặc viết séc, ra lệnh cho ngân hàng chuyển tiền để thanh
toán cho một bên thứ ba. Tiền ngân hàng là phương tiện thanh toán được chấp nhận rộng rãi.
5. Các chức năng của tiền
Người được xác lập chủ quyền đối với tiền, có quyền thực hiện các hành vi sau:
-
Tiêu tiền (tiêu thụ, phương tiện thanh toán)
-
Gửi tiền để lấy tiền lãi (đầu tư)
-
Đổi lấy một loại tiền tệ khác (trao đổi)
-
Trữ tiền (bảo toàn giá trị)
Tổng số tiền trong lưu hành phản ánh sự phân chia của
sản phẩm quốc gia: Lượng tiền mà một người sở hữu tương ứng với lượng
sản phẩm quốc gia mà người đó có thể có khi tiêu dùng lượng tiền sở hữu.
Chức năng là phương tiện thanh toán
Trong một nền kinh tế không có một chuẩn mực đo giá
trị chung (thí dụ như là tiền) thì một giao dịch thành công giữa 2 vật
trong kinh tế đòi hỏi các nhu cầu trao đổi phải phù hợp với nhau. Một
thí dụ: Một người nông dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ. Một thợ thủ
công muốn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa 2 người này sẽ không bao giờ có
một cuộc mua bán trao đổi vì ý định bán của người nông dân không phù hợp
với ý định mua của người thợ thủ công. Cả hai người có thể phải tìm
kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một người có ý định giao dịch phù hợp.
Cùng với tiền quá trình này được đơn giản hóa đi rất nhiều: Người nông
dân có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được dể đổi
lấy dụng cụ tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền
thu được mua thịt tại một người thứ tư.
Chức năng là phương tiện tính toán
Khi tiền là một chuẩn mực chung để đo giá trị thì tất
cả các giá cả của một nền kinh tế có thể được thể hiện bằng đơn vị tiền
tệ. Trong một nền kinh tế với 1 triệu loại hàng hóa khác nhau khi so
sánh giá trị trao đổi của mỗi hai loại hàng hóa một sẽ có vào khoảng 500
tỉ giá tương đối khác nhau (thí dụ: 1 giờ lao động = 5 bánh mì; 1 giờ
lao động = 1 cái áo; 1 giờ lao động = 1kg thịt; 5 bánh mì = 1 cái áo; 1
cái áo = 1 kg thịt,…). Khi sử dụng tiền như là một chuẩn mực giá trị
chung thì chỉ còn 1 triệu tỷ lệ trao đổi (5 đơn vị tiền = 1 giờ lao động
= 5 bánh mì = 1 cái áo = 1 kg thịt =…), vì thế mà khi so sánh giá cả
không còn phải tốn nhiều công sức nữa.
Chức năng bảo toàn giá trị
Một phương tiện thanh toán phải giữ được giá trị của
nó. Vì thế mà hầu như chỉ là các loại hàng hóa không hư hỏng mới được
thỏa thuận là “tiền” (thí dụ như là vàng hay kim cương). Nếu tiền không
tồn tại thì một người nông dân chỉ có khả năng trao đổi ngũ cốc để lấy
các hàng hóa khác cho đến khi ngũ cốc này bị hư hỏng. Vì thế mà người
nông dân tốt nhất là nên trao đổi ngũ cốc sớm để đổi lấy tiền “không bị
hư hỏng”. Điều này còn được gọi là chức năng bảo toàn giá trị hệ quả (consecutiv). Chức năng bảo toàn giá trị tạo thành (constitutiv) là chức năng tạo tài sản từ tiền bằng cách cất giữ, tức là giữ tiền duy nhất chỉ vì muốn bảo toàn giá trị.
6. Cung cấp tiền
Quá trình cung cấp tiền ngày nay
Trên lý thuyết có thể phân biệt hai loại tiền khác
nhau. Loại thứ nhất là tiền của ngân hàng quốc gia, do ngân hàng quốc
gia phát hành hay tiêu hủy, tiền mặt thuộc về loại tiền này. Loại thứ
hai là tiền xuất phát từ các ngân hàng thương mại mà chính xác thì chỉ
là các yêu cầu thanh toán tiền (các khoản phải thu). Phương cách cung
tiền thông dụng nhất là cho vay.
Các ngân hàng thương mại cung cấp tiền bằng cách cho
khách hàng vay tiền. Sau khi chấp nhận cho khách hàng vay tiền, ngân
hàng sẽ ghi khoản tiền này vào tài khoản của khách hàng và người vay có
thể chuyển khoản số tiền này đến các khách hàng khác của ngân hàng hay
đến khách hàng củacác ngân hàng khác. Tiền được tạo thành thông qua chu
trình này vì một mặt tiền được đưa vào lưu hành nhưng về mặt khác chỉ
hình thành yêu cầu thanh toán của ngân hàng đối với người vay và chỉ là
một mục của các khoản phải thu trong bản cân đối kế toán của ngân hàng.
Ngược lại khi hoàn trả nợ thì tiền được tiêu hủy đi vì tiền quay về ngân
hàng và món nợ được thanh toán.
Vì khoản tiền vừa được tạo thành lại có thể là cơ sở
để tạo thành các khoản tiền khác nên trên lý thuyết không có giới hạn
tối đa cho các khoản tiền do ngân hàng tạo thành. Để kiểm soát quá trình
này ngoài các quy định cân đối kế toán (nợ quá mức, bảo chứng vốn tự
có) còn có dự trữ tối thiểu bắt buộc, tức là các ngân hàng thương mại
phải ký thác tại ngân hàng quốc gia một tỷ lệ nhất định của số tiền gửi
không kỳ hạn của khách hàng.
Khi vốn tự có của ngân hàng cộng với tiền gửi của
khách hàng không đủ để có thể cho vay nhiều như ý muốn ngân hàng thương
mại có thể vay tiền từ ngân hàng quốc gia, người ta gọi đó là tái cấp
vốn.
Ngân hàng quốc gia cũng có thể tạo thêm tiền mà không
cần phải cho vay, thí dụ như bằng cách mua ngoại tệ, kim loại quý hay
chứng khoán. Ngoài công cụ này ra ngân hàng quốc gia còn có thể chủ động
mua trái phiếu hay cho ngân hàng thương mại vay. Việc cho chính phủ vay
tiền đã bị cấm trong vùng Euro từ bước thứ 2 của Liên minh Tiền tệ châu
Âu trong năm 2004, tức là nhà nước không được phép vay tiền của ngân
hàng quốc gia. Tại Mỹ thì lại khác: Thí dụ như vào ngày 17 tháng 11 năm
2004 mục “U.S. Treasury” (trái phiếu của ngân khố Mỹ) đã chiếm đến 89,3%
tổng tài sản của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Nói một cách khác đồng
Đô la Mỹ được “bảo chứng” gần như hoàn toàn bằng nợ quốc gia của chính
phủ Mỹ.
Để một khách hàng của ngân hàng có thể thanh toán các
giao dịch bằng tiền ở bên ngoài hệ thống ngân hàng, ngân hàng quốc gia
in tiền giấy và các ngân hàng có thể “vay” (đúng ra là “mua” cùng với
một thỏa thuận mua lại của ngân hàng quốc gia) để trả cho khách hàng
(tiền mặt). Ngân hàng quốc gia đưa ra một lãi suất nhất định khi đưa
tiền cho các ngân hàng thương mại, gọi là lãi suất cơ bản.
Toàn bộ hệ thống tiền tệ có thể được miêu tả dưới
dạng của một bản cân đối kế toán. Ở một bên là tiền trong lưu hành, bên
kia là các khoản nợ tương ứng, dự trữ vàng và tiền cộng với chứng khoán
thuộc về sở hữu của ngân hàng quốc gia. Mỗi một khoản tiền có trong tài
khoản và mỗi một tờ tiền giấy đều tương ứng với một mục nợ (khoản phải
thu) hay là một mục tài sản trong bản cân đối kế toán của ngân hàng quốc
gia.
Thị trường tiền
Cũng giống như cho hàng hóa và dịch vụ, có thị trường
tiền với cung và cầu tồn tại cho việc vay tiền. Các tư nhân và doanh
nghiệp có nhu cầu tiền và đồng thời cũng là nguồn cung ứng khi gởi tiền
tiết kiệm vào ngân hàng. Hệ thống ngân hàng là người môi giới giữa 2
nhóm này và vì thế làm cho thị trường có hiệu quả hơn vì người tiết kiệm
tiền và người muốn vay tiền không phải tự tìm kiếm cho từng giao dịch
nữa. Ngân hàng lấy tiền công cho dịch vụ này bằng hiệu số giữa lãi suất
tiết kiệm và lãi suất cho vay. Lãi suất hình thành từ thị trường này
được quyết định bởi cung và cầu và trên nguyên tắc chính là giá phải trả
cho việc mượn tiền.
Ngân hàng quốc gia có thể tạo ảnh hưởng lên thị
trường tiền bằng cách hoặc là gián tiếp tác động đến cung và cầu thông
qua lãi suất dành cho tiền của ngân hàng quốc gia hoặc là chủ động tạo
ảnh hưởng đến việc cung ứng tiền trong khuôn khổ của chính sách gọi là
chính sách thị trường mở. Trong chính sách này ngân hàng quốc gia mua
một số chứng khoán nhất định và trả bằng tiền của ngân hàng quốc gia.
Tiền được đưa thêm vào trong hệ thống lưu hành. Ngược lại ngân hàng quốc
gia cũng có thể bán chứng khoán và qua đó mà lấy tiền ra khỏi hệ thống.
Lãi suất dành cho tiền của ngân hàng quốc gia hay dành cho tiền gửi tại
ngân hàng quốc gia chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường tiền vì chỉ
khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay tiền hay gửi tiền tại ngân
hàng quốc gia.
Tiền danh định
Tiền danh định (Fiat money) dùng để chỉ tiền
được phát hành (thông thường là bởi một ngân hàng quốc gia) mà không có
cơ sở bảo chứng đầy đủ, tức là hoặc là bảo chứng không toàn bộ hay lặp
thừa (tautologic).
-
Một bảo chứng là không toàn bộ khi nhận lại những vật mà giá trị thực tế ít hơn là giá trị trên danh nghĩa.
-
Một bảo chứng là lặp thừa khi những vật nhận lại không có giá trị hay chỉ nhận lại được yêu cầu thanh toán (nợ phải thu) lại dựa trên fiat money.
Fiat money xuất phát từ tiếng La Tinh fiat lux (sẽ có ánh sáng) vì loại tiền như vậy có thể dễ dàng tạo thành khi có nhu cầu (sẽ có tiền) và người tạo ra chúng (thường là ngân hàng quốc gia) không cần phải có hàng hóa để bảo chứng.
Khả năng tạo ra fiat money chỉ tồn tại cho đến chừng
nào mà những người tham gia trên thị trường (tư nhân, ngân hàng và các
doanh nghiệp khác) cho là tiền phát hành này vẫn có một giá trị nhất
định. Những người ủng hộ fiat money cho rằng hình thức tạo nên tiền này
không mang lại nguy hiểm cho kinh tế (vì người phát hành phải có một độ
đáng tin cậy cao) trong khi những người chỉ trích lại nhìn thấy đây là
một phương thức làm giàu không công bằng của chính phủ.
7. Lượng tiền tệ
Khái niệm “tiền” không gắn liền với một vật nhất
định. Một vật được định nghĩa là tiền khi thỏa mãn 3 chức năng tiền nói
trên. Vì các vật khác nhau thỏa mãn các chức năng trên ở các mức độ khác
nhau nên khó có thể xác định ranh giới giữa những gì là tiền và những
gì không phải là tiền. Vì lý do này các ngân hàng quốc gia định nghĩa
khái niệm tiền và lượng tiền theo nhiều cách khác nhau. Ngân hàng Liên
bang Đức định nghĩa:
Lượng tiền M0 là tiền do ngân hàng
quốc gia tạo nên, bao gồm các khoản tiền gửi không kỳ hạn của các ngân
hàng tại ngân hàng quốc gia và tiền giấy cũng như tiền kim loại trong
lưu hành. Lượng tiền này chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngân hàng quốc
gia. Lượng tiền M1 bao gồm M0 và các tiền có thể sử dụng làm phương tiện thanh toán tức là tiền mặt . Lượng tiền M2 (còn gọi là tiền rộng) bao gồm lượng tiền M1 và các khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 4 năm. Lượng tiền M3 bao gồm lượng tiền M2 và các khoản tiền gửi tiết kiệm có thời hạn báo trước theo quy định của pháp luật.
8. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ hay
chính sách lưu thông tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của
chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt-
như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn
dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao
gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián
tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt
buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Nói chung các ngân hàng quốc gia thường theo đuổi một
mục đích thực tế và cố định khi điều chỉnh lượng tiền. Mục đích này
thường là sự bình ổn giá, tức là chống lại lạm phát. Để có thể giới hạn
tỷ lệ lạm phát ở một mức độ hợp lý với nền kinh tế quốc dân, ngân hàng
quốc gia cố gắng giữ lượng tiền đồng bộ với sự phát triển kinh tế. Lý
thuyết lượng tiền (Quantity Theory of Money) đã nêu ra một mối quan hệ trực tiếp giữa tăng trưởng lượng tiền và mức giá cả.
Chính sách tiền tệ được thực hiện thông qua 6 công cụ:
-
Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
-
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
-
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
-
Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
-
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
-
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái.
Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung
của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung
ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt
được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.
Lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự
tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền
kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của
đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá
giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông
thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền
tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai
thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị
trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ
đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát
là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì
được người ta gọi là sự ổn định giá cả.
Lạm phát có thể được phân loại theo vận tốc (lạm phát
vừa phải (lạm phát thấp), lạm phát phi mã, siêu lạm phát) hay theo giai
đoạn (giai đoạn tăng tốc – giai đoạn ổn định – giai đoạn giảm tốc).
Lượng tiền có thể tăng vì chính sách lãi suất của ngân hàng quốc gia hay
vì nợ quốc gia tăng đột ngột.
- Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm một năm.- Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.- Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là lạm phát “mất kiểm
soát”, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị.
Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát.
Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên
(nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế
toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1)
người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng
hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn
định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín
dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ
số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần
trăm.lhg
Giảm phát
Giảm phát là tình trạng mức giá
chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát, do đó, trái ngược
với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá
trị âm. Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề
cập đến giảm phát, người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ
lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn.
========== ******* ============
Chú thích:
*** Tiền giấy, thường được gọi là giấy bạc ngân hàng, là một công cụ có thể chuyển nhượng được, một kỳ phiếu do một ngân hàng phát hành phải trả cho người cầm nó, được sử dụng làm tiền tệ, và theo nhiều phạm vi pháp lý, được sử dụng làm tiền tệ chính thức. Cùng với tiền kim loại, tiền giấy tạo thành các hình thức tiền mặt của tất cả các loại tiền tệ hiện đại. Ngoại trừ các loại tiền làm bằng kim loại quý có giá trị cao để kỷ niệm và không đưa vào lưu thông, tiền xu kim loại thường được sử dụng cho các đơn vị tiền tệ có giá trị thấp hơn còn tiền giấy được sử dụng cho những mệnh giá cao hơn.Ban đầu, giá trị của tiền giấy đã được xác định bởi giá trị nội tại (giá trị thực chất) mà đồng tiền đó được đúc, như bạc hay vàng. Tuy nhiên, mang theo trong người nhiều kim loại quý như thế thường phiền toái và rất nguy hiểm. Để thay thế, tiền giấy đã được phát hành. Trong thuật ngữ tài chính, một tờ giấy bạc là một tờ giấy hứa trả cho người nào đó tiền. Ban đầu, các đồng giấy bạc là một lời hữa trả cho người mang nó một khoản kim loại quý được chứa trong các kho ngầm ở đâu đó. Bằng cách này, giá trị của kim loại được chứa ở kho (thường là tiền kim loại bằng bạc hoặc vàng) đã ủng hộ giấy bạc có thể chuyển đổi quyền sở hữu để đổi lấy hàng hóa hoặc dịch vụ.
Tham khảo
-
Karl Marx: Grundrisse der Kritik der politischen Ökonomie (Đóng góp phê bình về kinh tế chính trị), Berlin (DDR): Dietz 1953 hay Marx Engels Toàn tập, quyển 42
-
Alfred Sohn-Rethel: Das Geld, die bare Münze des Apriori, Berlin: Wagenbach, 1990
-
Friedrich August von Hayek: Entnationalisierung des Geldes, J.C.B.Mohr
-
Helmut Creutz: Das Geldsyndrom (Hội chứng tiền), Wirtschaftsverlag Langen Müller (cũng có thể đọc dưới dạng E-Book không mất tiền tại [1])
-
Bernd Senf: Der Nebel um das Geld – Zinsproblematik – Währungssysteme – Wirtschaftskrisen (Mơ hồ chung quanh tiền – Vấn đề lãi suất – Hệ thống tiền tệ – Khủng hoảng kinh tế), Lütjenburg: Gauke
-
Günter Hannich: Sprengstoff Geld. Wie das Kapitalsystem unsere Welt zerstört (Chất nổ tiền. Hệ thống tư bản phá hoại thế giới của chúng ta như thế nào), 2004
-
Bernard A. Lietaer: Die Welt des Geldes (Thế giới của tiền)
-
Stephen Zarlenga: Der Mythos vom Geld – Die Geschichte der Macht (Thần thoại tiền – Lịch sử của quyền lực). Zürich: Conzett
-
Ottmar Issing: Einführung in die Geldtheorie (Giới thiệu lý thuyết tiền tệ), Verlag Vahlen
-
Wolfgang Weimer: Geschichte des Geldes (Lịch sử của tiền), Suhrkamp Taschenbuchverlag
-
Egon W. Kreutzer: Wolf´s wahnwitzige Wirtschaftslehre – Band III – Über das Geld, EWK-Verlag
-
Bernhard Felderer, Stefan Homburg: Makroökonomik und neue Makroökonomik (Kinh tế học vĩ mô và Tân kinh tế học vĩ mô), 7. Auflage, 1999, Springer Verlag
-
Oliver Blanchard, Gerhard Illing: Makroökonomie (Kinh tế vĩ mô), 3.Auflage, 2003, Pearson Studium
CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP TỪ vi.wikipedia.org
0 comments:
Post a Comment