ÁI PHƯƠNG
Năm 1991, bà N.
(Bình Trị Đông B, quận Bình Tân) có chung sống như vợ chồng với ông T.
Sau đó, vì mâu thuẫn nên bà ra khỏi nhà khi đang mang thai. Đứa bé trai
sinh năm 1993, được mang họ mẹ. Sau đó, ông T. kết hôn với người khác có
hai đứa con trai và ly hôn vào năm 2003.
Vợ cũ phủ nhận con riêng của chồng
Cuối năm 2005, ông T. đột ngột qua đời nên hai mẹ con
bà N. trở về dự đám tang. Cháu bé được bà con bên nội coi là cháu đích
tôn. Họ lập biên bản xác nhận cháu là con của ông T. và hứa chia cho
cháu một phần di sản thừa kế. Trên cơ sở này, bà N. xin chính quyền xác
nhận ông T. là cha cháu bé. Bà nộp hồ sơ ngày 13-4-2006 và bốn ngày sau
thì được UBND phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân ra quyết định công
nhận cha, con.
Người vợ đã ly hôn của ông T. không đồng ý với quyết
định trên. Tuy nhiên, UBND phường đã bác đơn khiếu nại của bà. Thấy vậy,
bà đã khởi kiện đến TAND quận Bình Tân để yêu cầu hủy quyết định trên.
Ngày 31-7-2007, TAND quận Bình Tân đưa vụ án ra xét xử.
Viện dẫn khoản 2 Điều 34 Nghị định 158 ngày
27-12-2005 của Chính phủ, tòa này cho rằng UBND phường đã làm sai. Lẽ ra
sau khi nhận đơn, UBND phường phải thông báo cho những người liên quan
biết, nếu sau năm ngày mà không có ai tranh chấp thì mới ra quyết định
công nhận cha, con.
Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 32 Nghị định 158: “Việc
nhận cha, con được thực hiện nếu bên nhận, bên được nhận là cha, con còn
sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, con và việc nhận cha, con là tự
nguyện, không có tranh chấp”. Căn cứ điều khoản này, tòa cho rằng vào
thời điểm bà N. gửi đơn thì ông T. đã mất nên bà N. không có đủ điều
kiện để đăng ký việc nhận cha, con.
Tòa này còn cho rằng việc UBND phường Bình Trị Đông B
chỉ căn cứ vào các giấy tờ xác nhận của người thân ông T. để xác nhận
mối quan hệ cha con giữa ông T. với cháu bé là không đúng. Muốn chính
xác, các bên phải giám định gien theo các điều 63, 64 Luật Hôn nhân và
gia đình.
Sau cùng, đại diện của UBND phường đã đồng ý rút lại
quyết định công nhận cha, con nêu trên. Bà Phan Ngọc Hà, cán bộ tư pháp
phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, giải thích: “Gần hai tháng sau
khi ra quyết định công nhận cha, con thì UBND phường nhận được đơn của
mẹ ông T. xin nhận cháu nội. Để tránh được những dư luận không hay,
phường sẽ giải quyết lại hồ sơ theo trình tự khác”.
Phường đúng, tòa sai?
Do bà N. không kháng cáo và VKSND các cấp cũng không
kháng nghị nên bản án sơ thẩm trên đã có hiệu lực. Song nhiều ý kiến cho
rằng việc TAND quận Bình Tân thụ lý và giải quyết đơn kiện của người vợ
cũ của ông T. là sai quy định.
Theo luật định, người khiếu nại phải là người có
quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp đến quyết định hành chính,
hành vi hành chính; quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu
nại nếu không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
khiếu nại sẽ không được thụ lý, giải quyết. Ở đây, quyết định công nhận
cha, con của UBND phường Bình Trị Đông B không liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ cũ ông T. Một thẩm phán tòa hành
chính TAND TP.HCM nhận xét: “Người vợ cũ chỉ được đại diện theo pháp
luật cho hai đứa con chưa thành niên, chứ không thể trực tiếp đứng ra
khởi kiện. Nếu chưa ly hôn thì bà mới có tư cách khởi kiện”.
Đồng tình với quan điểm trên, một cán bộ hộ tịch Sở
Tư pháp TP.HCM cho rằng: “Khi ra quyết định công nhận cha, mẹ, con, cán
bộ tư pháp dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là tự nguyện và không có tranh
chấp. Trong trường hợp này, nếu có một người đàn ông nào đó tự nhận là
cha của đứa bé thì các cơ quan chức năng mới xem xét, giải quyết”.
Đi sâu vào nội dung, cách xét xử của tòa cũng không
chuẩn xác. Theo khoản 2 Điều 34 Nghị định 158, trong thời hạn năm ngày
kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con
là đúng sự thật và không có tranh chấp, UBND cấp xã sẽ đăng ký việc nhận
cha, mẹ, con. Trường hợp cần phải xác minh, thời hạn nói trên được kéo
dài thêm không quá năm ngày. Nghị định này không yêu cầu phải thông báo
cho những người liên quan, lại nữa người vợ cũ ông T. không được xem là
người liên quan.
Được biết, cách đây hơn một tuần, bà N. lại tiếp tục
gửi đơn xin nhận cha cho con. Hiện tại, UBND phường Bình Trị Đông B đang
chờ Sở Tư pháp TP.HCM hướng dẫn cách thức giải quyết đối với trường hợp
đặc biệt này.
Không thể giám định gien của người chết
Tìm hiểu thêm từ Viện Công nghệ sinh học (Viện Khoa
học và công nghệ Việt Nam), chúng tôi được biết cơ quan giám định chỉ có
thể giám định xương của người chết.
Nếu đứa bé đó là con trai, ngoài các em cùng cha khác
mẹ, cơ quan giám định có thể căn cứ vào kết quả giám định gien của ông
nội hay chú, bác ruột của đứa bé (tức cha, anh, em trai ruột của người
chết) để kết luận được mối quan hệ cha-con giữa đứa bé với người chết.
Chỉ khi không có những người thân trên thì cơ quan
giám định mới áp dụng biện pháp giải mã cuối cùng là giám định xương của
người chết. Bấy giờ, các chuyên gia sẽ lấy xương của người chết và mẫu
của người sống (như mẫu máu, tế bào, móng tay…) để xác định quan hệ
cha-con.
Một bức ảnh, một ý kiến… cũng là chứng cứ
Bà N. hoàn toàn có đủ điều kiện để đăng ký việc nhận
cha, con. khoản 2 Điều 32 Nghị định 58 cho phép người con đã thành niên
hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên được làm thủ tục nhận
cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
Riêng việc xác nhận cha, mẹ, con có thể nói chứng cứ
xác nhận rất rộng. Đó có thể là xác nhận của chính quyền địa phương về
việc người cha và người mẹ có chung sống trong khoảng thời gian đứa bé
được mang thai; ảnh gia đình chụp chung; ý kiến hai bên nội, ngoại… Hiện
nay không có bất kỳ văn bản pháp luật nào bắt buộc phải giám định ADN
khi nhận cha, mẹ, con, ngay cả khi đương sự là người nước ngoài.
SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM
0 comments:
Post a Comment