DƯƠNG QUỲNH HƯƠNG
Anh Nguyễn Thế Tiếng
(sinh 1964) và chị Nguyễn Thị Kim Sang (sinh 1969) chung sống với nhau
như vợ chồng từ năm 1999, quá trình chung sống hai người có 2 con chung.
Trước khi chung sống với chị Sang ở thị xã Bạc Liêu, anh Tiếng sống ở
thành phố Cà Mau và đã có một đời vợ, chị Tô Hồng Mai (ốm mất năm 1997)
và hai con riêng là Nguyễn Thế Hiền (sinh 1986) và Nguyễn Thị Hồng Anh
(sinh 1991); còn chị Sang sống ở tỉnh Đồng Tháp, đã có một đời chồng (ly
hôn năm 1998) và một con trai riêng (chồng cũ nuôi).
Sau khi tự nguyện chung sống với nhau một thời gian,
không đăng ký kết hôn, đến năm 2007 do mâu thuẫn trầm trọng nên hai bên
không thể chung sống với nhau trong một nhà. Ngày 24.12.2007, TAND thị
xã Bạc Liêu đã ra Quyết định số 26/2007/QĐST-HNGĐ về việc công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự, theo đó giao hai con chung cho chị Sang
nuôi dưỡng, anh Tiếng có trách nhiệm đóng góp nuôi dưỡng một cháu; về
phần tài sản, giao cho anh Tiếng toàn bộ nhà, đất và các vật kiến trúc
khác gắn liền với đất tọa lạc tại số B04/27A, khóm Trà Kha A, phường 8,
thị xã Bạc Liêu (phần nhà, đất này anh Tiếng mua do bán nhà cũ ở thành
phố Cà Mau), còn anh Tiếng có trách nhiệm giao chị Sang 25 lượng vàng
24k (vàng 9999) khi anh Tiếng chuyển nhượng dãy nhà trọ trên mảnh đất có
cùng địa chỉ nói trên.
Đến ngày 13.6.2008, Chánh án TAND tỉnh Bạc Liêu ra
Quyết định kháng nghị số 01/2008/QĐKN-DS đối với Quyết định số 26 ngày
24.12.2007 của TAND thị xã Bạc Liêu, theo đó đề nghị Ủy ban Thẩm phán
TAND tỉnh Bạc Liêu xét xử giám đốc thẩm hủy về phần tài sản đối với
Quyết định nêu trên và giao hồ sơ cho TAND thị xã Bạc Liêu giải quyết
lại, bởi vì anh Tiếng và chị Sang đều khai nhận nợ Ngân hàng Đông Á số
tiền 600 triệu đồng chưa hết hạn hợp đồng nhưng cấp sơ thẩm không đưa
ngân hàng tham gia tố tụng. Tiếp đến, ngày 22.10.2008, TAND thị xã Bạc
Liêu ra Quyết định số 14/2008/QĐST-HNGĐ về thay đổi việc nuôi con, theo
đó anh Tiếng có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung mà không
yêu cầu chị Sang cấp dưỡng nuôi con.
Ngày 13.1.2009, TAND thị xã Bạc Liêu ra Bản án sơ
thẩm số 02/2009/HNGĐ-ST về chia tài sản sau hôn nhân đã quyết định:
không chấp nhận yêu cầu của chị Sang đòi anh Tiếng phải chia tài sản
nhà, đất và tiện nghi vật dụng tại địa chỉ B04/27A, khóm Trà Kha A,
phường 8, thị xã Bạc Liêu, do các tài sản này được anh Tiếng tạo lập
riêng trước khi hai người sống chung với nhau, các giấy tờ về quyền sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất đều đứng tên anh Tiếng; anh Tiếng có trách
nhiệm giao trả chị Sang 20 lượng vàng, vì biên bản hòa giải thành ngày
24.12.2007 chị Sang xác định anh Tiếng mượn 20 lượng vàng chứ không phải
25 lượng vàng.
Do bản án nêu trên có kháng cáo, ngày 23.4.2009, TAND
tỉnh Bạc Liêu ra Bản án phúc thẩm số 06/2009/HN và GĐPT sửa một phần án
sơ thẩm, theo đó không chấp nhận yêu cầu của chị Sang đòi anh Tiếng
phải chia tài sản nhà, đất và tiện nghi vật dụng nhưng chấp nhận yêu cầu
của chị Sang đòi anh Tiếng phải trả 25 lượng vàng. Căn cứ Bản án phúc
thẩm số 06 nói trên, ngày 7.5.2009, Trưởng thi hành án thị xã Bạc Liêu
đã ra Quyết định số 181/QĐ-THA buộc anh Tiếng phải trả chị Sang 25 lượng
vàng; ngày 19.1.2010, Chi cục thi hành án dân sự thị xã Bạc Liêu đã tổ
chức cưỡng chế kê biên tài sản là nhà và đất của anh Tiếng.
Sau khi có bản án phúc thẩm, các con của anh Tiếng
(với chị Mai) là Thế Hiền và Hồng Anh đã liên tục khiếu nại Bản án phúc
thẩm số 06 đề nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, bởi họ
là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng lại không
được bản án đề cập tới. Lý do là, tài sản do anh Tiếng mua gồm nhà, đất ở
thị xã Bạc Liêu là tiền do anh Tiếng bán căn nhà chung của anh Tiếng và
chị Mai (vợ cũ) ở số 07 Lê Lai (Trần Hưng Đạo cũ), thành phố Cà Mau.
Trước khi chị Mai mất, ngày 15.4.1997 trước sự chứng kiến của thân tộc
hai bên, anh Tiếng và chị Mai thỏa thuận và cam kết (bằng văn bản) khẳng
định căn nhà số 7 Trần Hưng Đạo và các tài sản khác trong căn nhà đó là
tài sản chung của hai vợ chồng được tạo dựng sau nhiều năm làm ăn; nếu
chị Mai chết thì toàn bộ tài sản nói trên được để lại cho hai con là Thế
Hiền và Hồng Anh để nuôi chúng khôn lớn; trong trường hợp anh Tiếng xây
dựng gia đình mới thì đề nghị gia đình hai bên đứng ra quản lý số tài
sản này. Vì vậy, để bán được căn nhà số 07 Trần Hưng Đạo và di chuyển cả
gia đình về thị xã Bạc Liêu sinh sống, ngày 6.5.2000 anh Tiếng phải cam
kết (bằng văn bản) với hai họ nội ngoại: toàn bộ số tiền bán nhà này là
của hai con Thế Hiền và Hồng Anh, anh Tiếng hứa “tôi sẽ không lấy
một đồng nào, tất cả cho hai đứa con tôi học hành thành tài và có cuộc
sống yên ổn như những lời mẹ hai đứa trăng trối”.
Tuy nhiên, khi xét xử tòa án cấp sơ thẩm, cũng như
tòa án cấp phúc thẩm đều không xác minh làm rõ tài sản riêng của anh
Tiếng được tạo lập từ nguồn bán nhà số 7 Trần Hưng Đạo, ngoài anh Tiếng
còn có đồng chủ sở hữu nào nữa không, qua đó xác định chính xác người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Có thể nói, việc hai cấp xét
xử không đưa hai con của anh Tiếng (với chị Mai) là Thế Hiền và Hồng
Anh vào tham gia tố tụng trong vụ án này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng, dẫn đến việc bản án phúc thẩm kết luận anh Tiếng có toàn quyền
sở hữu đối với khối tài sản ở thị xã Bạc Liêu là không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án. Điều đáng nói là, có đối tượng
không phải là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng trong bản
án sơ thẩm, phúc thẩm đều xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, như Ngân hàng Đông Á chi nhánh Bạc Liêu - vì có
việc, anh Tiếng và chị Sang trước kia có vay của Ngân hàng Đông Á số
tiền 600 triệu đồng. tuy nhiên trên thực tế, tòa án không phải xem xét
vấn đề này vì hợp đồng vay mượn tiền đã được thanh lý (từ 7.5.2007) khá
lâu trước khi vụ án được tòa án giải quyết.
Về việc anh Tiếng phải trả chị Sang 25 lượng vàng,
Bản án sơ thẩm số 02 căn cứ vào “Tờ cam kết” ngày 15.10.2007 giữa anh
Tiếng và chị Sang để quyết định anh Tiếng phải trả cho chị Sang 20 lượng
vàng, còn Bản án phúc thẩm số 06 lại căn cứ vào Quyết định số 26 về
việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự để quyết định anh Tiếng
phải trả cho chị Sang 25 lượng vàng. Vấn đề đặt ra phải làm rõ là, giữa
anh Tiếng và chị Sang có hay không có việc cho
nhau vay mượn tài sản có giá trị tương đương 20 hoặc 25 lượng vàng. Thực
chất vấn đề này là giữa anh Tiếng và chị Sang sau một thời gian chung
sống có hai con chung, nhưng càng về sau mâu thuẫn về lối sống càng gay gắt, không thể hàn gắn nổi. Để giải quyết nhanh việc
chia tay ai về nhà nấy, hai bên thống nhất thỏa thuận tại “Tờ cam kết”
ngày 15.10.2007 có sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn Túy, theo đó chị
Sang có trách nhiệm nuôi hai con chung mà không cần sự chu cấp nuôi
dưỡng của anh Tiếng, đổi lại anh Tiếng tự nguyện đưa chị Sang 20 lượng
vàng để phụ giúp việc nuôi dưỡng hai con chung. Thực tế hoàn toàn không
có việc anh Tiếng mượn chị Sang số tài sản gồm 2 xe Honda (dream) và một
số nữ trang khoảng 20 lượng vàng vào thời điểm năm 1999 như trong “Tờ
cam kết” ghi nhận. Tại “Giấy xác nhận” ngày 18.1.2010, ông Nguyễn Văn
Túy – người chứng kiến thỏa thuận nói trên khẳng định một lần nữa hoàn
toàn không có việc chị Sang cho anh Tiếng vay mượn tài sản để làm ăn.
Điều đáng lưu ý là về phần tài sản của chị Sang trước khi đến chung sống
với anh Tiếng vào năm 1999 được thể hiện tại Quyết định công nhận thuận
tình ly hôn số 07/QĐTTLH ngày 23.5.1998 của TAND huyện Tam Nông (Đồng
Tháp) công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Sang với chồng cũ, theo đó
về phần tài sản đã ghi rõ là không có.
Với mong muốn thúc đẩy nhanh và giải quyết dứt điểm
việc chia tay, tại biên bản hòa giải thành ngày 14.12.2007, anh Tiếng
cũng đồng ý trả chị Sang 25 lượng vàng (thêm thỏa thuận giúp đỡ về nơi ở
sau ly hôn) với điều kiện chị Sang vẫn phải tiếp tục nuôi dưỡng hai con
chung (đây là căn cứ để TAND thị xã Bạc Liêu ra Quyết định số 26 yêu
cầu anh Tiếng giao chị Sang 25 lượng vàng). Tuy nhiên, do chị Sang không
thực hiện trách nhiệm nuôi dưỡng hai con chung như cam kết ngày
15.10.2007, mà trả các con chung để anh Tiếng nuôi dưỡng, vì vậy anh
Tiếng không chấp nhận việc đưa chị Sang 20 (hoặc 25) lượng vàng.
Qua diễn biến của vụ việc cho thấy, hoàn toàn không
có chứng cứ nào chứng minh anh Tiếng có mượn tài sản của chị Sang, Bản
án phúc thẩm số 06 quyết định anh Tiếng trả chị Sang 25 lượng vàng chỉ
căn cứ vào cam kết của anh Tiếng mà cam kết này chỉ được thực hiện khi
chị Sang có trách nhiệm nuôi dưỡng hai con chung, giải quyết như vậy là
phiến diện dẫn đến quyết định của bản án không phù hợp với những tình
tiết khách quan của vụ án.
Chính vì những lý do nêu trên, Bản án phúc thẩm số 06
ngày 23.4.2009 của TAND tỉnh Bạc Liêu cần phải được xem xét lại theo
thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các
đương sự
SOURCE: BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment