Trời Tây Bắc xầm
xì, dòng sông Đà bắt đầu mùa lũ. Xuôi theo sông, chúng tôi tìm về các
bản Mông cao tút hút. Vẳng trong không gian, trên các sườn núi, lời hát
tìm bạn của các chàng trai Mông ngân lên: Cú cò, nhỉa cò, cú nhỉa cò…
(anh và em, anh và em yêu nhau) báo hiệu cho một mùa “bắt vợ”, “kéo vợ”
bắt đầu…
Làm vợ từ thuở… 12
Tập tục “kéo vợ” của người Dao hay “bắt vợ” của người
Mông vốn là một tập tục có từ lâu đời. Thông thường, vào những ngày rỗi
việc, thóc, ngô đã về yên trong bồ, các chàng trai Mông, Dao thường nhờ
cánh bạn cùng lứa đi “bắt”, “kéo” vợ về cho mình. Khi chàng trai người
Mông, Dao nào đó để ý đến một cô gái bất cứ ở lứa tuổi nào mà anh ta
thích, anh ta sẽ tổ chức đi “bắt” hay “kéo” về nhà mình để cúng trình
ma, dù cô gái kia có yêu anh ta hay không. Đã bị bắt về nhà, cúng trình
ma rồi thì cô gái kia đã trở thành vợ, thành dâu nhà người. Cô gái sẽ
phải ở vậy suốt đời, không ai nhòm ngó nếu không lấy chàng trai đó. Vùng
đất Tây Bắc – thượng nguồn sông Đà mỗi mùa “bắt vợ” qua đi, người ta
không thể thống kê được có bao nhiêu thiếu nữ người Dao, người Mông đẹp
như bông tớ dầy đã có người yêu trở thành nạn nhân của tập tục này.
Ở Lai Châu, nơi nào có người Mông, Dao sinh sống là
nơi ấy còn hiện hữu tập tục “bắt vợ”, “kéo vợ”, chỉ khác nhau ở mức độ
do môi trường giao tiếp. Trong các huyện ở Lai Châu thì huyện Phong Thổ
được coi là nơi có tập tục này tồn tại lâu nhất và ăn sâu vào tiềm thức
người dân, đặc biệt là ở các xã xa xôi như Nậm Se, Mù Sang, Bản Lang… Để
tìm hiểu cái hậu nghiệt ngã của tập tục này, tại bản Nậm Se, chúng tôi
đã tìm gặp người mẹ trẻ Lý Thị Hợp. Ngôi nhà tranh gió thốc bốn bề, nằm
sát bìa rừng là nơi cư ngụ của vợ chồng trẻ Lý Thị Hợp và Vàng Văn Việt.
Nếu không đặt chân vào nhà, thấy người, thấy bếp thì người ta dễ nhầm
đây là một cái chòi canh nương bị bỏ hoang từ lâu lắm rồi. Nhà của cặp
vợ chồng trẻ này không có gì ngoài vài ba chiếc nồi méo mó, đen thui
cùng ít váy áo cũ vắt trên chiếc sào nứa.
Lý Thị Hợp, người con gái phải chấp nhận tập tục “bắt
vợ” của người Mông này đã phải làm vợ từ năm 12 tuổi. Là một cô bé xinh
xắn, năm 12 tuổi, Hợp đang váy áo xúng xính cùng bạn bè đồng lứa đi
chơi lễ hội Gầu Tào (một lễ hội của người Mông vào đầu mùa xuân) thì
“được” Vàng Văn Việt (chồng của em bây giờ, hơn em 5 tuổi) “để ý”. Thế
là Tết năm ấy, cuộc đời thiếu nữ của cô bé Hợp khép lại khi Vàng Văn
Việt rủ tụi bạn chặn đường “bắt” em về làm vợ. Hợp có muốn học, muốn
làm, muốn ở với bố mẹ đẻ nữa cũng bằng không thôi, “ma nhà chồng” đã
“ghi tên” em vào “sổ” rồi! Không có lối thoát, không có sự lựa chọn,
theo tập tục, cô bé Hợp ngơ ngác bước chân qua bậu cửa nhà chồng. Hai
năm sau, cây đào trên núi lại đơm hoa đỏ thắm, chúng bạn cùng trang lứa
chưa bị ai “bắt” vẫn vui vẻ chơi xuân, còn em phải nằm góc nhà trở dạ.
14 tuổi Hợp đã phải làm mẹ, tài sản không có gì, mẹ bé, con yếu, gia
cảnh của em túng quẫn vô cùng. Hôm chúng tôi đến, Hợp đang ôm con ngồi
hơ lửa và vá lại bộ quần áo cũ vừa xin được để chuẩn bị chống lạnh cho
con khi những cơn gió mùa đang rin rít tràn về.
Cũng trong chuyến vào Phong Thổ lần này, tại Mù Sang,
chúng tôi gặp người mẹ trẻ Vàng Thị Dợ. Dợ là một cô gái Dao. So với
Hợp, Dợ vẫn may mắn hơn vì 16 tuổi em mới bị người ta “kéo” về làm vợ.
Dợ bảo, trong một lần đi lấy rau cho lợn ngoài nương, em bị một người mà
em không hề yêu thương lấy vải bịt mắt, vác về nhà cúng ma. Và, cũng
như cô gái người Mông Lý Thị Hợp kia, Dợ đành phải chấp nhận lấy chồng
theo tập tục. Dợ nói trong ánh nhìn buồn như mây mù: “Gái Mông, gái Dao ở
đây là thế, bị người ta “bắt”, người ta “kéo” là phải lấy người ta
thôi”.
Khi luật chưa thắng lệ
Bên bếp lửa rực hồng với chén rượu ngô, chúng tôi đã
có cuộc trò chuyện cùng ông Tấn Văn Thông – Chủ tịch hội đồng nhân dân
xã Nậm Se. ông Thông cho biết: “Chính quyền xã cũng đã tốn công, tốn sức
tuyên truyền, vận động và có cả xử phạt nữa đấy, nhưng ở nơi này Luật
(Luật Hôn nhân gia đình) vẫn chưa thắng cái lệ đâu…”.
Theo cách lý giải của ông Thông, tập tục “kéo vợ”,
“bắt vợ” ở vùng Tây Bắc này vẫn hết sức nan giải. Điều nan giải nhất là
tập tục này đã có từ lâu đời, nó đã trở thành một phần huyết tố, một
“nếp nhăn” hằn đậm trong suy nghĩ của người dân. Tuổi lấy chồng đối với
con gái người Dao, người Mông ở đây vẫn được “ấn định” từ 15-20 tuổi. Cô
gái nào từ 20 tuổi trở đi, nếu không được ai “bắt”, “kéo” thì coi như
đã “ế” rồi. Nếu muốn lấy được chồng, nhiều cô gái phải làm lễ đi tìm
chồng cho mình, xấu hổ và tốn kém lắm.
Cũng theo ông Thông, do sự chi phối của tập tục cùng
với điều kiện kinh tế, xã hội còn thấp kém nên tập tục “bắt vợ”, “kéo
vợ” còn hết sức nan giải. Trong các nạn nhân của tập tục này chiếm phần
rất nhỏ là tự nguyện còn lại là bị sức ép từ nhiều phía, trong đó lớn
nhất vẫn là tập tục. Ngoài những sức ép như: sợ không ai “bắt”, “kéo”;
sợ “ế” chồng thì con gái người Mông, người Dao còn bị sức ép từ phía cha
mẹ. Nếu được người ta “bắt”, “kéo” vào độ tuổi từ 20 đổ lại thì gia
đình nhà gái có quyền thách cưới, dù thách to hay nhỏ cũng có tiền đem
về cho gia đình. Chính lý do này đã khiến các ông bố bà mẹ có con gái
luôn luôn “ủng hộ” việc người ta “bắt”, “kéo” con gái mình trong độ tuổi
ấy.
Với tâm trạng hết sức trăn trởV, chị Nguyễn Thị Thảo,
y tá Trạm y tế xã Mù Sang ngậm ngùi: “Nhiều khi tôi rớt nước mắt trước
những sản phụ tuổi chưa đến 15 quằn quại với những cơn đau quá sức.
Chúng ngây thơ, vụng về đến tội nghiệp. Có trường hợp đòi bỏ về vì… đau
quá không đẻ nữa. Không biết chúng sẽ sống ra sao khi phải làm mẹ ở lứa
tuổi ấy”.
Các lớp học ở đây thỉnh thoảng lại vắng mất một bé
gái. Cô giáo hỏi thì bạn bè cho biết là họ đã bị người ta “bắt”, “kéo”
về làm vợ rồi. Vấn đề này đang là một thực trạng hết sức đau lòng ở đây.
Riêng với y tá Thảo, 2 năm công tác ở Mù Sang, hàng chục lần chị đã tận
mắt chứng kiến các em gái bị trai bản “bắt” và “kéo” về làm vợ. Chị
thấy cám cảnh mà không làm gì được.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, Đồn biên phòng 277
được phân quản lý 3 xã là Suối Hồ, Nậm Se, Bản Lang. Ngoài nhiệm vụ bảo
vệ an ninh biên giới, anh em Đồn 227 còn trợ giúp cơ sở loại bỏ tập
tục. Tuy nhiên, để giải quyết tập tục này không thể trong ngày một, ngày
hai mà cần phải tác động từ từ vì đây là vấn đề hết sức nhạy cảm. Riêng
năm 2006, 3 xã có tới gần 40 vụ trai, gái tự tử mà nguyên nhân sâu xa
là bị người ta “bắt”, nhầm, “bắt” sớm hoặc do cha mẹ, người thân ngăn
cản không cho đi “bắt”, đi “kéo”.
Chúng tôi rời Tây Bắc khi màu trong xanh của nước
sông Đà biến thành đỏ quạch vì lũ đang cuồn cuộn đổ về. Không biết mỗi
năm có bao thiếu nữ người Mông, người Dao phải gác mọi hồn nhiên, ngậm
ngùi theo người ta về làm vợ khi chưa đến tuổi trăng tròn. Suy nghĩ và
sự trăn trở cứ như chiếc đinh vít xoáy sâu vào đầu chúng tôi, gây ra một
cảm giác nhoi nhói về một hủ tục buồn…
SOURCE: BÁO ĐỜI SỐNG VÀ PHÁP LUẬT
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment