PGS.TS. NGUYỄN QUÍ THANH
1. Đặt vấn đề
Vốn xã hội là khái niệm được sử dụng khá thường xuyên
trong các tài liệu xã hội học, đặc biệt xã hội học kinh tế. Theo nghĩa
chung nhất vốn xã hội được xem xét như là các chuẩn mực và các quan hệ
xã hội gắn chặt trong cơ cấu xã hội của nhóm, mà nhờ đó các cá nhân phối
hợp hành động để đạt được những mục đích. Điều đó có nghĩa là vốn xã
hội liên quan đến những thiết chế, các quan hệ và các chuẩn mực mà tạo
hình cho chất lượng và số lượng của các tương tác xã hội. Vốn xã hội
liên quan đến sự cố kết nội tại về xã hội và văn hóa của xã hội, các
chuẩn mực và các giá trị dẫn dắt các tương tác giữa các cá nhân và các
thiết chế mà họ bị gắn vào đó. Vốn xã hội không phải là tổng của những
thiết chế trụ cột chống đỡ xã hội, mà đó là keo dán chúng lại với nhau.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng vốn xã hội là các kênh tiếp cận đến những
nguồn lực mà gắn chặt cố hữu với những quan hệ nào đó. Những quan hệ như
vậy mở ra những ý tưởng kinh doanh mới triển vọng được ấp ủ, phụ thuộc
vào chất lượng của thông tin và những nguồn lực bắt nguồn từ đó.
Một câu hỏi khác được đặt ra là tại sao chủ đề vốn xã
hội lại được các nhà xã hội học quan tâm nghiên cứu? Ngày nay, càng
ngày càng có nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy vốn xã hội đóng góp
đáng kể cho sự phát triển bền vững. Sự bền vững có nghĩa là chúng ta để
lại cho các thế hệ tương lai nhiều cơ hội hoặc nhiều hơn cơ hội so với
cái chúng ta có. Đầu tư cho cơ hội đòi hỏi một sự mở rộng các loại nguồn
vốn. Nói cách khác quan niệm truyền thống về vốn cần được mở rộng thêm
khái niệm về vốn xã hội. Vốn xã hội là chất keo gắn kết xã hội mà nếu
không có nó thì không thể nói về bất kì sự tăng trưởng kinh tế và hạnh
phúc con người nào. Nói một cách bao quát nhất nếu không có vốn xã hội
thì xã hội sẽ bị sụp đổ. Pierre Bourdieu cho rằng các loại vốn có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Cụ thể là sự đầu tư cho các quan hệ xã hội (một
dạng vốn xã hội) có thể giúp cho các chủ thể hành động nhận được những
lợi ích về kinh tế hoặc tri thức hoặc uy tín, và ngược lại. Thực tế đã
chứng minh là có nhiều nguồn có thể tạo thành vốn xã hội trong đó các
quan hệ gia đình ở những Quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều của Khổng giáo là
một nguồn quan trọng. Gia đình có thể được nhìn nhận như là một mạng
lưới những trách nhiệm. Gia đình cấp vốn cho các thành viên của nó bằng
việc hỗ trợ nguồn vốn chung, hoặc bằng một sự ủy thác mà nhờ đó các
thành viên của nó tin tưởng lẫn nhau (Bourdieu, 1983). Vì vậy, gia đình
bao gồm một mạng lưới xã hội mà có thể được khai thác một cách hiệu quả
để đạt được những mục đích chung (Coleman, 1988).
Với cách tiếp cận với gia đình như là một trong các nguồn vốn xã hội, nghiên cứu của chúng tôi đã đạt được mục tiêu tìm hiểu xem các giao dịch
kinh tế được bao bọc, gắn kết (embedding) bởi các quan hệ gia đình (tức
là một loại vốn xã hội) như thế nào? Những biểu hiện của nó trong việc
vay vốn kinh doanh, chia sẻ về lao động hay trong quản lý doanh nghiệp
nhỏ, rất nhỏ hay doanh nghiệp gia đình ra sao? Đó là những câu hỏi
nghiên cứu chính mà chúng tôi muốn làm rõ trong bài viết này.
SOURCE: TẠP CHÍ XÃ HỘI HỌC SỐ 02 (90), 2005
CÁC BẠN ĐỌC TOÀN BỘ BÀI VIẾT TẠI ĐÂY
0 comments:
Post a Comment