THS. NGUYỄN HỒNG HẢI – Khoa Luật dân sự – Đại học Luật Hà Nội
Lời dẫn
Từ thời cổ đại,
hôn nhân và gia đình (sau đây gọi chung là gia đình) luôn đóng một vai
trò quan trọng trong hình thành, nuôi dưỡng và phát triển nhân cách con
người, là nơi hội tụ các giá trị đạo đức, phong tục, tập quán truyền
thống và hiện đại. Bất kỳ một cá nhân nào với tư cách là chủ thể cơ bản
của xã hội đều mang dấu ấn từ gia đình.
Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển vì nó mang
những chức năng tự nhiên và xã hội riêng biệt mà các thiết chế xã hội
khác không có. Các chức năng của gia đình hình thành gắn liền với sự
phát triển của loài người và được chính con người xã hội hóa chúng. Về
cơ bản, gia đình có ba chức năng: sinh đẻ (tái sản xuất con người), giáo
dục và kinh tế, các chức năng này là cơ sở để hình thành các quyền tự
nhiên của con người về gia đình và được xã hội hóa thành các quyền cơ
bản của công dân:
- Chức năng sinh đẻ hay tái sản xuất con người là
chức năng quyết định trong việc đảm bảo duy trì, phát triển các thế hệ
tương lai – một trong những yếu tố quyết định sự tồn vong của một dân
tộc, một quốc gia và của loài người. Từ chức năng này, quyền được sinh
con, quyền được thừa nhận là cha, mẹ, con, quyền nuôi con nuôi, quyền
được hưởng các chế độ phúc lợi về thai sản… đã được hình thành và được
công nhận và bảo vệ;
- Chức năng giáo dục là chức năng rất quan trọng của
gia đình trong hình thành, phát triển nhân cách của các thế hệ trong gia
đình, đặc biệt thế hệ trẻ. Ngoài ra, nó còn giúp nuôi dưỡng, kế thừa và
phát huy các giá trị truyền thống trong gia đình và xã hội. Nhân cách,
khả năng ứng xử và khả năng thích ứng của mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng
lớn từ giáo dục gia đình. Từ chức năng giáo dục đã xác lập các quyền
được chăm sóc, giáo dục, đại diện và bảo vệ của các thành viên trong gia
đình….;
- Chức năng kinh tế gắn liền với vai trò của gia đình
như là một đơn vị kinh tế cơ bản, độc lập của xã hội. Nó giúp cho gia
đình tạo dựng cơ sở vật chất đảm bảo cuộc sống của các thành viên. Các
chức năng sinh đẻ và giáo dục cũng không thể thực hiện tốt nếu không gắn
liền với chức năng kinh tế. Từ chức năng kinh tế, các quyền về sở hữu,
thừa kế, tham gia giao dịch… đã được hình thành, được công nhận và bảo
vệ.
Trên thực tế, nhiều quyền con người cơ bản cũng hình
thành hoặc chịu tác động từ sự tổng hợp của ba chức năng nói trên, như
quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền cư trú, các quyền về nhân thân, quyền
được tôn trọng và bảo vệ các quyền trong hôn nhân và gia đình…
Như vậy, quyền con người về hôn nhân và gia đình hình thành từ chính
quá trình gia đình hình thành và thực hiện các chức năng xã hội cơ bản
của nó. Tuy nhiên, sẽ thật phiến diện, nếu không nhìn nhận quyền con
người về hôn nhân và gia đình như là một bộ phận cấu thành của quyền con
người nói chung. Ở góc độ này, quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình là một hiện tượng xã hội lịch sử – Quá trình hình thành,
phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người.
Gia đình được hình thành trước khi nhà nước và pháp
luật ra đời (sự tồn tại của các hình thái gia đình quần hôn,
Pu-na-lu-an, đối ngẫu, một vợ – một chồng cổ điển). Tuy nhiên, quyền con
người về hôn nhân và gia đình và sự vi phạm về quyền này chưa đặt ra
khi chưa có sự phân hóa giai cấp và hình thành nhà nước, đồng nghĩa chưa
xuất hiện sự áp bức, vi phạm về quyền. Hay nói cách khác, quyền con
người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được đặt ra khi xuất hiện nhà
nước và pháp luật. Để đảm bảo đặc quyền giai cấp, nhà nước xuất hiện với
các thiết chế chính trị kèm theo. Các thiết chế chính trị này, đặc biệt
pháp luật đã tác động, điều chỉnh các quan hệ xã hội bao gồm cả quan hệ
hôn nhân và gia đình theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Nhà nước
thông qua pháp luật đã thiết lập nên hệ thống quyền, nghĩa vụ cho công
dân nói chung, thành viên của gia đình nói riêng. Căn cứ vào lợi ích của
Nhà nước có gắn liền với lợi ích chung của xã hội, của gia đình và các
thành viên trong đó hay không, hay chỉ vì lợi ích ích kỷ của giai cấp
thống trị mà nảy sinh hay không nảy sinh sự vi phạm những lẽ công bằng
vốn có của nhân loại nói chung, của hôn nhân và gia đình nói riêng.
Vì vậy, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, quyền con
người về hôn nhân và gia đình được đề cập, tôn trọng và bảo vệ ở những
cấp độ khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội, quyền con người trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình cũng có sự khác biệt, thay đổi do tác động bởi
các điều kiện kinh tế – xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển và bởi yếu tố
đặc thù về đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống.
Hiện nay, quyền con người về hôn nhân và gia đình đã
công nhận rộng rãi trên toàn thế giới như là bộ phận cấu thành cơ bản
nhất trong nhóm quyền con người về dân sự nói riêng, quyền con người nói
chung. Tôn trọng, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia
đình đã thực sự là tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội không chỉ mang
tính quốc gia mà còn mang tính toàn cầu. Trên thực tế, Liên hợp quốc đã
ban hành nhiều công ước trực tiếp hoặc gián tiếp về công nhận, thực thi
và bảo vệ loại quyền con người này: Hiến chương Liên hợp quốc (1945),
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa (1966), Công ước chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ
(CEDAW)…
1. Đặc điểm quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong lịch sử và hiện tại, gia đình đã
luôn được xác định là thiết chế xã hội rất quan trọng – Tế bào của xã
hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, chế độ xã hội nào,
gia đình luôn được Nhà nước quan tâm tác động bằng chính sách, điều
chỉnh bằng pháp luật. Quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
cũng được đặt trong tiến trình đó và mang những đặc điểm cơ bản sau:
* Thứ nhất, mức độ công nhận và thực thi
quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ
vào bản chất của chế độ xã hội qua mỗi giai đoạn phát triển của đất
nước.
Dưới các chế độ cũ (phong kiến, thực dân), quyền con
người về hôn nhân và gia đình được xác định theo giáo lý nho giáo. Do
vậy tư tưởng “phụ quyền” và “gia trưởng” là nguyên tắc chủ đạo trong các
quan hệ hôn nhân và gia đình. Quyền được xác lập và ưu tiên cho người
đàn ông: cha, chồng, con trai…, quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ: mẹ,
vợ, con gái . . . mang tính phụ thuộc vào lợi ích của người đàn ông
trong gia đình. Mặt khác, quyền về hôn nhân và gia đình trong các chế độ
xã hội này xác định theo nguyên tắc phụ thuộc về thứ bậc “trên dưới”:
phụ – tử, huynh – đệ. Trong đó, quyền của người thuộc bậc dưới cũng phụ
thuộc vào lợi ích của người thuộc bậc trên.
Dưới chế độ của Nhà nước ta hiện nay, quyền con người
về hôn nhân và gia đình (quyền kết hôn, ly hôn, nhóm quyền được làm
cha, làm mẹ và làm con, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền đại
diện, quyền về nơi cư trú, quyền xác định họ, tên, dân tộc, tôn giáo,
quốc tịch, quyền về lao động, tư do kinh doanh…) đã trở thành một trong
các quyền cơ bản nhất của cá nhân được pháp luật ghi nhận trong Hiến
pháp, các văn bản luật có liên quan. Nguyên tắc cơ bản trong công nhận
và bảo đảm thực thi quyền con người về hôn nhân và gia đình là bình
đẳng, không phân biệt đối xử, kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
* Thứ hai, quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam thường được đặt trong lợi ích chung của gia đình và xã hội.
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp ở phương Đông
thuộc nền văn minh lúa nước – nền văn minh gắn chặt gia đình trong vai
trò là đơn vị xã hội cơ bản. Kết cấu chặt chẽ gia đình – làng xã – Nhà
nước đi liền với toàn bộ tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Do
đó, khác với người phương Tây thường đề cao tự do cá nhân còn gia đình
nhiều khi xếp vào hàng thứ yếu, người Việt Nam và một số nước Á Đông
khác mỗi cá nhân gắn bó chặt chẽ với một gia đình, làng xã được cấu
thành bởi sự tập hợp nhiều gia đình và gia đình là tế bào của xã hội.
Quyền của cá nhân về hôn nhân và gia đình vì thế thường bị hạn chế bởi
lợi ích của gia đình và xã hội. Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành
của Việt Nam ghi nhận một nguyên tắc trong phương pháp điều chỉnh của
luật là “các chủ thể thực hiện quyền trên cơ sở lợi ích chung của gia đình”.
Trong thực tiễn cuộc sống, một người phụ nữ Việt Nam hiện đại khi cần
cân nhắc giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của gia đình, thì lựa chọn lợi
ích gia đình vẫn mang tính phổ biến.
Đặc điểm này cho thấy, ở Việt Nam nếu công nhận, thực
thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình như quyền cơ bản
của cá nhân mà không có sự quan tâm về mặt pháp luật, chính sách đối với
vai trò của gia đình, thì quyền con người về hôn nhân và gia đình mới
chỉ dừng lại ở tính chất tuyên ngôn mà chưa thể sự tiếp nhận quyền cụ
thể trên thực tế.
* Thứ ba, quyền con người về hôn nhân và gia
đình ở Việt Nam không phải là điều “mới lạ” so với nền văn hóa truyền
thống của Việt Nam, nhưng cũng có sự “xung đột” nhất định bởi yếu tố tôn
giáo, tín ngưỡng.
Dân tộc Việt Nam dù bất cứ giai đoạn lịch sử nào,
truyền thống tôn trọng phụ nữ, đề cao tình cảm trong gia đình là một nét
văn hóa không thay đổi. Chúng ta là một trong số ít dân tộc có tục thờ
mẹ, người dân luôn thể hiện khát vọng mong muốn được hưởng quyền dân chủ
hơn, bình đẳng hơn trong gia đình, một loạt các bài thơ của nữ thi sĩ
Hồ Xuân Hương, hay các câu ca dao, tục ngữ “thuận vợ, thuận chồng
tát bể đông cũng cạn”, “của chồng, công vợ”, “râu tôm nấu với ruột bầu,
chồng chan vợ húp gật gù khen ngon”… đã phản ánh phần nào truyền
thống tốt đẹp đó. Do vậy, xét ở khía cạnh thích ứng văn hóa, người dân
Việt Nam dễ tiếp nhận hơn quyền con người về hôn nhân và gia đình, đặc
biệt các quyền liên quan đến vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã
hội.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng là đất nước cũng chịu ảnh
hưởng bởi tôn giáo, và tín ngưỡng. Trong suốt các triều đại phong kiến
Việt Nam, tư tưởng nho giáo đã được du nhập và đề cao. Trong đó, đức hy
sinh của người phụ nữ vì gia đình, sự phụ thuộc giữa các thế hệ, sự
trọng nam – kinh nữ … là một trong các nội dung cơ bản . Quan niệm “phu
xướng, phụ tùy”, “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “trai năm thê, bảy
thiếp, gái chính chuyên một chồng”… đã trở thành nguyên tắc phổ biến về
ứng xử và xác định quyền trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Ngoài
ra, cùng với sự xuất hiện giao lưu Đông – Tây, đặc biệt ở giai đoạn
thuộc Pháp, đạo Cơ đốc đã xuất hiện và có ảnh hưởng ở nhiều vùng, địa
phương của Việt Nam. Giáo lý nhà thờ cũng có những tác động không nhỏ
đến thực thi quyền con người, đặc biệt các quyền về kết hôn, ly hôn… ảnh
hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng đã và đang là những rào cản rất lớn
trong việc thực thi và bảo vệ các quyền cá nhân của thành viên gia đình.
* Thứ tư, quyền con người về hôn nhân và gia đình gắn bó chặt chẽ với các quyền con người về dân sự và chính trị khác
Thực tế nhiều quyền con người về hôn nhân và gia đình
chỉ thực hiện được trên thực tế ở Việt Nam nếu các quyền dân sự, chính
trị khác đã được công nhận và thực thi cho các thành viên gia đình. Ví
dụ: quyền tự do lựa chọn nơi ở, nghề nghiệp, kinh doanh của người vợ chỉ
có thể thực hiện khi trước hết nó là quyền cơ bản của công dân được Nhà
nước tôn trọng và bảo vệ.
Do vậy, khi công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con
người về hôn nhân và gia đình phải gắn liền chặt chẽ quyền này với các
quyền con người về dân sự, chính trị khác như là sự tương hỗ, điều kiện
cần cho quyền con người về hôn nhân và gia đình.
2. Quyền con người về hôn nhân và gia đình trong pháp luật Việt Nam hiện hành
2.1 Cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
Thực tiễn xã hội và pháp lý ở Việt Nam cho thấy, công
nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình là mục
tiêu và nguyên tắc cơ bản, nhất quán trong chính sách về gia đình của
Đảng và Nhà nước ta. Nó đã và đang được bảo đảm thực hiện theo các cơ
chế sau:
* Công nhận và bảo hộ chính thức bằng hệ thống
nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và hệ thống pháp luật của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam
- Các nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng
cộng sản Việt Nam đều ghi nhận về tôn trọng và bảo vệ quyền con người
trong hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, ngày 21/2/2005, Ban bí thư TƯ Đảng
đã có Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong đó nêu rõ tình hình bạo lực gia đình gia tăng làm ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và một trong những
quan điểm chỉ đạo làxây dựng và hoàn thiện pháp luật về .. dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội….
- Việt Nam là thành viên tích cực của Liên hợp quốc
trong việc tham gia và công nhận các công ước quốc tế trực tiếp hoặc
gián tiếp về quyền con người nói chung, quyền con người về hôn nhân và
gia đình nói riêng: Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(1966), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ
(CEDAW)… Việt Nam cũng đã và đang từng bước nội luật hóa các công ước
này vào pháp luật của Việt Nam (trên thực tế nhiều quyền con người về
hôn nhân và gia đình đã được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam trước
khi Việt Nam là thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người)
- Trong hệ thống pháp luật của mình,Việt Nam đã tích
cực xây dựng hệ thống qui phạm pháp luật đa dạng ở nhiều cấp độ, nhiều
lĩnh vực khác nhau về quyền con người nói chung và quyền con người trong
linh vực hôn nhân và gia đình nói riêng: Hiến pháp năm 1992 (trước đó
là các Hiến pháp 1946, 1959, 1980), Bộ luật dân sự năm 2005 (trước đó là
Bộ luật dân sự năm 1995), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (trước đó
là Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959 và 1986), Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (trước đó là Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 1991), Bộ luật hình sự năm 1999 (trước đó là các Bộ
luật hình sự năm 1985 và các bộ luật hình sự sửa đổi), pháp luật về xử
phạt hành chính, Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật phòng, chống bạo lực
gia đình năm 2007…
* Xây dựng hệ thống các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và
gia đình:
- Quốc hội ban hành pháp luật về quyền con người nói chung, quyền con người trong hôn nhân và gia đình nói riêng;
- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm
hướng dẫn và thực hiện trên thực tế vai trò quản lý Nhà nước các hoạt
động công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia
đình; Các cơ quan trực thuộc chính phủ, Ủy ban nhân dân (Bộ tư pháp, Bộ
Công An, Bộ Y tế, Bộ Lao động, thương binh và xã hội và các sở chuyên
ngành…) thực hiện việc công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về
hôn nhân và gia đình theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
- Các cơ quan tư pháp (Điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án) chịu trách nhiệm xử lý các hành vi vi phạm quyền con người về
hôn nhân và gia đình theo pháp luật hình sự hoặc pháp luật dân sự.
* Xây dựng cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa nhà
nước với các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng
trong công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia
đình. Trong đó vai trò của các tổ chức và cộng đồng đóng vai trò
rất quan trong phổ biến, tuyên truyền, giao dục về quyền con người trong
hôn nhân và gia đình, phát hiện các hành vi vi phạm quyền con người về
hôn nhân và gia đình, cùng tham gia giải quyết các tranh chấp liên quan
đến quyền con người trong phạm vi cộng đồng;
* Xây dựng cơ chế về tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về quyền con người trong hôn nhân và gia đình nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của toàn xã hội;
*Xây dựng cơ chế bảo đảm về chính sách chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội đối với công nhận, thực thi và bảo vệ quyền
con người về hôn nhân và gia đình.
2.2. Những nội dung cơ bản về quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình theo Pháp luật Việt Nam hiện hành
* Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền kết hôn của công dân
- Cá nhân đủ điều kiện kết hôn có quyền tự do kết hôn
ở Việt Nam. Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định. Các hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc cảm trở trong kết hôn bị nghiêm cấm và bị xử lý
pháp luật (dân sự, hành chính, hình sự) theo hành vi và mức độ vi phạm;
- Pháp luật không phân biệt đối xử trong kết hôn. Cá
nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn thì có quyền kết hôn không phụ
thuộc vào địa vị, thành phần xã hội, giới tính, dân tộc, tôn giáo và
quốc tịch. Trên thực tế hôn nhân trộn lẫn các yếu tố địa vị, thành phần
xã hội, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch là rất phổ biến ở Việt Nam và
được pháp luật việt bảo vệ. Riêng quyền kết hôn của những người cùng
giới Nhà nước Việt Nam chưa thừa nhận vì yếu tố văn hóa và tính tự nhiên
trong quan hệ hôn nhân;
- Để bảo thực chất của quan hệ hôn nhân, loại trừ
định kiến xã hội theo quan niệm “trai năm thê, bảy thiếp, gái chính
chuyên một chồng” pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận quan hệ hôn nhân 1 vợ
– 1 chồng, các hành vi “đa thê” hoặc “đa phu” bị nghiêm cấm. Ngoại trừ,
các trường hợp do hậu quả của chế độ cũ để lại (chế độ hôn nhân 1 vợ – 1
chồng dưới chế độ XHCN được thiết lập ở Việt Nam từ sau ngày 13/1/1960 ở
miền Bắc XHCN và được áp dụng thống nhất trong cả nước từ ngày
25/3/1977).
* Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân
Để thực hiện quyền cơ bản của công dân, cũng như nhằm
loại trừ định kiến xã hội trong xác định vai trò của người vợ trong gia
đình “thuyền theo lái, gái theo chồng”, pháp luật Việt Nam công nhận và
bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ và chồng về nhân và tài sản:
- Vợ, chồng được tự do lựa chọn về nơi cư trú, dân
tộc tộc, quốc tịch và tôn giáo. Nguyên tắc phụ thuộc nhau không áp dụng
trong quan hệ hôn nhân ở Việt Nam. Đặc biệt người phụ nữ tự quyết định
về nơi ở, dân tộc, quốc tịch và tôn giáo cho mình mafkhoong phụ thuộc
quyết định của người chồng. Tuy nhiên pháp luật khuyến khích sự đồng
thuận của vợ chồng khi thực thi quyền này;
- Quyền “gia trưởng” của người chồng trong gia đình
đã bị phủ nhận bằng việc pháp luật cho phép vợ, chồng đều có quyền đại
diện cho nhau và đại diện cho gia đình theo pháp luật hoặc theo ủy
quyền. Quyền đại diện của người vợ trong các quan hệ hôn nhân và gia
đình là bình đẳng không bị phân biệt;
- Vợ, chồng có bình đẳng trong thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất
năng lực hành vi dân sự và vợ chồng đang là người giám hộ. Quan niệm nội
trợ và nuôi con là nghĩa vụ của người phụ nữ đã được thay thế bằng
nghĩa vụ chung của hai vợ chồng. Đối với thiên chức làm mẹ của người mà
người chồng không thể thay thế thì pháp luật yêu cầu người chồng phải
tạo điều kiện cho người vợ thực hiện thiên chức đó;
- Vợ, chồng bình đẳng trong tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản chung. Pháp luật không phân biệt chức năng
kinh tế do chồng hay vợ thực hiện mà đó là trách nhiệm chung của hai vợ
chồng.Trong trường hợp vì lý do giới tính, sức khỏe, nghề nghiệp, mức
thu nhập mà công sức đóng góp ít hơn thì cũng không làm giảm hoặc mất
quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung, lao động trong gia đình được
tính ngang với lao động tạo ra của cải, vật chất. Trong các giao dịch có
đối tượng là tài sản chung thì vợ chồng bình đẳng với nhau khi tham gia
giao dịch, đối với giao dịch có giá trị tài sản chung lớn, tài sản
chung đưa vào kinh doanh, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình
thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của hai vợ chồng. Pháp luật thừa
nhận quyền đại diện của vợ, chồng cho nhau trong xác lập, thực hiện và
chấm dứt giao dịch. Trong trường hợp có lý do chính đáng, pháp luật cho
phép vợ chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân;
- Để tôn trọng quyền tự do cá nhân và sự độc lập nhất
định của vợ, chồng, pháp luật thừa nhận vợ, chồng có quyền sở hữu tài
sản riêng đối với những tài sản riêng họ có trước khi kết hôn, tài sản
họ được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, đồ dùng, tư trang cá nhân,
tài sản khác theo qui định pháp luật… Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản riêng mà không phụ thuộc vào ý chí của chồng, vợ
mình. Tuy nhiên, quyền của vợ, chồng có tài sản riêng có thể bị hạn chế
vì lợi ích chung của gia đình;
- Vợ, chồng bình đẳng trong thừa kế và thừa kế di sản
của nhau. Vợ, chồng có quyền để lại di sản và tự quyết định theo ý chí
của mình về định đoạt di sản. Vợ, chồng cũng có quyền hưởng thừa kế di
sản của nhau theo pháp luật hoặc theo di chúc. Nếu hưởng thừa kế theo
pháp luật họ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau. Nếu người vợ, chồng
lập di chúc không cho chồng hoặc vợ minh được hưởng thừa kế thì người bị
truất quyền vẫn có thể được hưởng 2/3 suất theo luật (nếu di sản được
chia theo pháp luật), trừ khi họ thuộc diện pháp luật tước quyền thừa kế
hoặc chính họ từ chối nhận di sản;
- Vợ chồng cũng phải thực hiện cấp dưỡng cho nhau khi
ly hôn, trong đó một bên do điều kiện sức khỏe, không có thu nhập, tài
sản để tự nuôi mình và bên kia có đủ khả năng kinh tế thì phải thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng.
* Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền ly hôn của vợ chồng
- Theo pháp luật Việt Nam hiện hành ly hôn là quyền
tự do cá nhân của vợ, chồng. Vợ chồng có quyền yêu ly hôn khi thấy tình
cảm giữa vợ chồng không còn và việc duy trì hôn nhân là không cần thiết
và không có lợi cho gia đình. Việc ly hôn chỉ bị hạn chế trong trường
hợp người chồng có yêu cầu ly khi người vợ đang mai thai hoặc nuôi con
dưới 12 tháng tuổi. Mục đích của qui định này là gắn trách nhiệm của
người chồng trong việc tạo điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng
làm mẹ. Quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ không bị hạn chế ngay
carkhi đang mai thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Vợ chồng đã
ly hôn được tự do về nhôn nhân có quyền kết hôn với người khác mà không
phải chịu ràng buộc nào đối với quan hệ hôn nhân đã chấm dứt;
- Nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người vợ và con chưa thành niên là nguyên tắc cơ bản trong giải
quyết ly hôn nhằm mục đích giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của ly
hôn đối với các chủ thể này;
- Công nhận nguyên tắc bình đẳng trong phân chia tài
sản chung khi ly hôn (căn cứ vào công sức đóng góp, hoàn cảnh gia đình,
tình trạng tài sản, sản xuất và nghề nghiệp của vợ chồng …);
- Pháp luật ghi nhận việc ly hôn không làm chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con của mình mà chỉ thừa nhận sự
thay đổi phương thức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với con. Người
không trực tiếp nuôi con chưa thành niên phải cấp dưỡng nuôi con, tiếp
tục thực hiện các quyền đại diện, chắm sóc, giáo dục con phù hợp với
hoàn cảnh hai vợ chồng không sống chung. Người trực tiếp nuôi con phải
tạo điều kiện cho người không trực tiếp nuôi con thực hiện cascq1 và
nghĩa vụ của mình đối với con.
* Công nhận và bảo vệ quyền được làm cha, làm mẹ và làm con
Quyền được làm cha, làm mẹ và làm con vừa là quyền tự
nhiên và là quyền pháp lý của công dân. Pháp luật Việt Nam công nhận và
bảo vệ quyền này thông qua hai căn cứ phát sinh dựa trên sự kiện sinh
đẻ và nuôi con nuôi:
- Đối với việc thực tế quyền làm cha, làm mẹ và làm
con thông qua sự kiện sinh đẻ, pháp luật không phân biệt việc sinh con
và được thừa nhận là con trong điều kiện cha mẹ không có hôn nhân hay
không có hôn nhân hợp pháp. Trong trường hợp người phụ nữ đơn thân muốn
thực hiện quyền làm mẹ của mình pháp luật tạo điều kiện cho chị ta được
thực hiện quyền này bằng sinh con theo phương pháp khoa học. Đối với đôi
vợ chồng không thể sinh con tự nhiên pháp luật cũng cũng tạo điều kiện
quyền được sinh con theo phương pháp khoa học. Pháp luật khuyến khích sự
phát triển của y học về lĩnh vực này để đảm bảo quyền được làm cha, làm
mẹ của công dân; Pháp luật công nhận quyền xác định một người là cha,
mẹ, con theo thủ tục hành chính hoặc thủ tục tư pháp.
- Bên cạnh xác lập quan hệ cha mẹ và con dựa trên sự
kiện sinh đẻ, pháp luật cũng tạo điều kiện và khuyến khích công dân thực
hiện quyền làm cha, làm mẹ và con thông qua nuôi con nuôi. Quyền nuôi
con nuôi là môn quyền mang tính chất vừa nhân đạo, vừa pháp lý đáp ứng
được nhu cầu chính đáng của cả bên có nhu cầu làm cha, làm mẹ (đặc biệt
đối với người vô sinh, người đơn thân, người già yếu, cô đơn không nơi
nương tựa) và bên cần được làm con (đặc biệt đối với người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự).
* Công nhận và bảo vệ các quyền nhân và tài sản giữa cha mẹ và con, các thành viên khác trong gia đình
- Pháp luật ghi nhận nguyên tắc bình đẳng, không phân
biệt đối xử giữa các con (con trai – con gái, con nuôi – con đẻ, con
trưởng – con thứ, con thừa tự hay con không thừa tự) khi tiếp nhận quyền
và thực hiện nghĩa vụ đối với cha mẹ;
- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con không phụ
thuộc vào hôn nhân của cha mẹ hợp pháp hay không hợp pháp. Trong mọi
trường hợp quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là không thay đổi vì yếu
tố hôn nhân của cha mẹ, nhưng phương thức thực hiện quyền và nghĩa vụ
có thể có sự khác biệt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể trong quan hệ
cha mẹ và con, quan hệ giữa cha mẹ với nhau;
- Con được hưởng các lợi ích nhân thân từ cha mẹ: họ,
dân tộc, tôn giáo, quốc tịch. Tuy nhiên, con có quyền thay đổi họ từ
cha sang mẹ hoặc ngược lại, con có thể mang họ của cha, mẹ nuôi khi họ
làm con nuôi, con cũng có thể không theo quốc tịch, tôn giáo của cha,
mẹ;
- Con có quyền được cha mẹ chăm sóc, giáo dục và nuôi
dưỡng (hoặc cấp dưỡng) khi chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự. Con đã thành niên đồng thời cũng có nghĩa vụ chăm
sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, cô đơn, không còn sức lao
động, không có thu nhập, tài sản để tự nuôi mình;
- Con có quyền sở hữu riêng độc lập với tài sản của
cha mẹ đối tài sản do lao động mà có, tài sản được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng, tài sản khác theo qui định của pháp luật…Con từ 15 tuổi
trở lên có quyền quản lý tài sản của mình hoặc ủy quyền cho cha mẹ,
người khác quản lý. Mặt khác, con từ đủ 15 tuổi trở lên đã tham gia lao
động, có thu nhập và sống cùng gia đình thì có nghĩa vụ đóng góp vào chi
tiêu chung của gia đình;
- Cha mẹ và con bình đẳng trong thừa kế và thừa kế di
sản của nhau. Họ có quyền để lại di sản và tự quyết định theo ý chí của
mình về định đoạt di sản. Họ cũng có quyền hưởng thừa kế di sản của
nhau theo pháp luật hoặc theo di chúc. Nếu hưởng thừa kế theo pháp luật
họ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau. Nếu họ lập di chúc không cho
cha mẹ hoặc con của mình được hưởng thừa kế thì người bị truất quyền là
cha mẹ, con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao
động vẫn có thể được hưởng 2/3 suất theo luật (nếu di sản được chia theo
pháp luật), trừ khi họ thuộc diện pháp luật tước quyền thừa kế hoặc
chính họ từ chối nhận di sản.
- Quyền và nghĩa vụ giữa anh, chị, em ruột, ông bà
nội, ông bà ngoại, cháu nội, cháu ngoại, cô chú bác ruột và cháu ruột
được pháp luật công nhận và bảo vệ trong quan hệ giám hộ và thừa kế theo
nguyên tắc thay thế khi cha mẹ và con không còn hoặc không có đủ điều
kiện để tiếp nhận quyền và thực hiện nghĩa vụ cho nhau.
* Công nhận và bảo vệ quyền được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của các thành viên trong gia đình
Quyền được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín là một trong những quyền tự nhiên và pháp lý cơ bản
nhất của công dân. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi của các
thành viên trong gia đình xâm phạm đến về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của nhau. Do đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình
mang tinh gắn bó tình cảm, phụ thuộc giữa các thế hệ, sự tác đông của
định kiến xã hội về vai trò của nam giới, phụ nữ trong gia đình, về vai
trò giữa thế hệ trên (cha mẹ, ông bà, anh chị, cô chú bác…) với thế hệ
dưới (con cháu, em…) mà có những hành vi xâm phạm đến nhau được mặc
nhiên như quyền đối với nhau và người bị thiệt hại phải chấp nhận. Để
phòng ngừa và xử lý các hành vi bạo lực trong gia đình Nhà nước Việt Nam
đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến vấn đề này: Hiến pháp năm 1992
(trước đó là các Hiến pháp 1946, 1959, 1980), Bộ luật dân sự năm 2005
(trước đó là Bộ luật dân sự năm 1995), Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 (trước đó là Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959 và 1986), Bộ
luật hình sự năm 1999 (trước đó là các Bộ luật hình sự năm 1985 và các
bộ luật hình sự sửa đổi), pháp luật về xử phạt hành chính, Luật bình
đẳng giới năm 2006 và đặc biệt Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm
2007… đều trực tiếp hoặc gián tiếp đã qui đình quyền được bảo vệ an toàn
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của các thành viên
trong gia đình và xử lý các hành vi vi phạm.
Theo đó, các hành vi sau đây được xác định là hành vi bạo lực gia đình:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan
hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng;
giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác
cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc
tài sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng
góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên
gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Người có hành vi bạo lực trong gia đình sẽ bị xử lý
hành chính, hình sự hoặc bồi thường thiệt hại tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm. Người là nạn nhân của bạo lực gia đình được pháp luật bảo vệ
theo nhiều biện pháp và ngăn chặn khác nhau thông qua trách nhiệm và
hoạt động của gia đình, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức
chính trị -xã hội, tổ chức xã hội, đảm bảo cho họ không tiếp tục là nạn
nhân của những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và uy tín trong gia đình.
3. Vài
nét khái quát về hiện trạng công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con
người trong hôn nhân và gia đình ở Việt Nam và một số khuyến nghị
3.1. Vài nét khái quát về hiện trạng công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
Không thể phủ nhận Việt Nam là một trong những quốc
gia tôn trọng và tích cực thực hiện nhất về công nhận, thực thi và bảo
vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau việc công nhận, thực
thi và bảo vệ quyền con người còn nhiều bất cập cần được khắc phục:
* Thứ nhất, Việt Nam vẫn là một trong các
nước nghèo và là đất nước nông nghiệp, do vậy sự khó khăn về kinh tế xã
hội và sự tồn tại những định kiến xã hội đãcó những ảnh hưởng không nhỏ
đến công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia
đình. Ví dụ: phụ nữ Việt Nam được công nhận quyền con người một
cách đầy đủ trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, nhưng trong cuộc
sống dưới áp lực của định kiến xã hội vẫn buộc họ phải lựa chọn giữa lợi
ích gia đình và lợi ích cá nhân họ trong sự phát triển nghề nghiệp, học
vấn, kinh tế… Sự lựa chọn lợi ích gia đình đến thời điểm này vẫn được
coi là dễ chấp nhận trong đại đa số cộng đồng…;
* Thứ hai, hệ thống qui phạm pháp luật của
Việt Nam về quyền con người trong hôn nhân và gia đình đã có nhưng phần
nhiều mới dừng lại ở nguyên tắc rất khó thực thi trong tình huống cụ thể
xuất phát từ cuộc sống. Ví dụ: Pháp luật thừa nhận quyền làm mẹ của phụ
nữ đơn thân qua sinh con theo phương pháp khoa học, nhưng không cho
phép họ khởi kiện người đàn ông đã hỗ trợ quyền làm mẹ của họ là cha của
con mình và giữa người đàn ông đó với con mà người phụ nữ đơn thân sinh
ra không có quan hệ cha mẹ và con. Qui định này nhằm mục đích tạo cơ
hội nhiều hơn cho phụ nữ đơn thân thực hiện quyền làm mẹ của mình. Tuy
nhiên, nó sẽ phát sinh mâu thuẫn về quyền của trẻ em được biết cha, mẹ
mình là ai? Và các quan hệ huyết thống, tập quán giữa người đàn ông cho
con và con của ông ta với con của người phụ nữ đơn thân sinh con….;
* Thứ ba, do quan niệm truyền thống về hành
vi ứng xử trong gia đình nên việc các thành viên trong gia đình xâm phạm
đến quyền của nhau ít được quan tâm phát hiện và xử lý hơn giữa những
chủ thể không có quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhận thức phổ biến trong
xã hội là chấp nhận hoặc bỏ qua hành vi cha mẹ áp đặt cho con, chồng cho
vợ… Mặt khác các hành vi xâm phạm quyền về hôn nhân và gia đình thường
được thành viên, thậm chí che giấu vì sợ người ngoài biết ảnh hưởng đến
uy tín của gia đình, dòng họ hoặc người sống phụ thuộc dễ chấp nhận hành
vi áp đặt của các thành viên có khả năng chí phối do quan hệ gia
trưởng, bề trên với bề dưới, phụ thuộc về kinh tế….
Thực tế đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm gia tăng
mức độ, hình thức và tính chất của các hành vi vi phạm quyền con người
về hôn nhân và gia đình. Theo Tờ trình Dự án Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội khóa XII “trên
toàn quốc cứ khoảng 2-3 ngày có 1 người bị giết có liên quan đến bạo lực
gia đình. Báo cáo của một số cơ sở y tế cho thấy một tỷ lệ khá lớn bệnh
nhân là nạn nhân của bạo lực gia đình…. tại 42 tỉnh trong 5 năm
(2000-2005) tòa án nhân dân tỉnh đã xét xử 10.608 vụ án hôn nhân và gia
đình, trong đó 42% vụ án ly hôn có nguyên nhân từ bạo lực gia đình.”.
* Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục và
phổ biến về quyền con người trong hôn nhân và gia đình còn chưa linh
hoạt, đa dạng và hiệu quả. Sự hiểu biết của xã hội nói chung, từng người
dân, từng thành viên gia đình nói riêng về quyền con người trong hôn
nhân và gia đình còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành vi. Do đó,
pháp luật đã thừa nhận quyền tự thân người dân, thành viên không gia
đình không tự nhận biết được đó là quyền hoặc họ không xác định được một
cách đúng cái họ đang thực hiện là đang xâm phạm đến quyền con người
trong hôn nhân và gia đình. Ví dụ: Pháp luật qui định con có quyền sở
hữu riêng đối với những tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng…
Tuy nhiên, khi con còn nhỏ, nhiều cha mẹ hầu như không biết quyền này
của con mà họ chủ động chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản con có
được do được thừa kế riêng, tặng cho riêng… cái mà đáng lẽ họ có trách
nhiệm quản lý và giao lại cho con khi con đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực
hành vi …
* Thứ năm, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con
người về hôn nhân và gia đình còn chưa cao ở một số lĩnh vực, một số cơ
quan nhất định. Ví dụ: ly hôn là quyền tự do cá nhân của vợ chồng, nhưng
cơ chế tố tụng và thủ tục giải quyết ly hôn ở Việt Nam hiện nay còn rất
nhiều yếu tố hạn chế đến quyền này của vợ chồng. Việc ly hôn cần thông
qua hòa giải là cần thiết, nhưng chỉ có hòa giải tại tòa án mới là bắt
buộc còn hòa giải ở cơ sở chỉ mang tính chất tự nguyện. Trên thực tế,
nhiều tòa ở địa phương lại chỉ thụ lý đơn sau khi đã có xác nhận qua hòa
giải ở cơ sở và đây là một thực tế tác động rất lớn đến quyền ly hôn
của vợ chồng….
4.2 . Một số khuyến nghị
* Thứ nhất, cụ thể hóa hơn nữa các qui định
pháp luật hiện hành về quyền con trong hôn nhân và gia đình theo hướng
thực tế hơn có tính áp dụng đúng với thực tế hơn. Đặc biệt các quyền về
sở hữu, quyền làm mẹ, làm cha, làm con, quyền khai sinh, quyền kết hôn
với người nước ngoài, quyền về quốc tịch của con có cha mẹ là người
không có quốc tịch, mang quốc tịch nước khác hoặc nhiều quốc tịch, xử lý
hành vi phạm và bảo vệ nạn nhân của hành vi xâm phạm quyền …
* Thứ hai, cần phải nâng cao vị thế kinh tế
và vai trò xã hội của các thành viên gia đình dễ bị tác động bởi định
kiến xã hội phụ nữ, con… để họ độc lập hơn trong xác lập, thực hiện và
bảo vệ quyền cho mình;
* Thứ ba, xác định rõ trách nhiệm công nhận,
thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình là trách
nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, cơ quan Nhà nước và nhân
viên của hệ thống chính trị, cơ quan Nhà nước mà không phải riêng thành
tố tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước nào. Trong đó, phải xác định rõ cơ quan
Nhà nước đóng vai trò quản lý, thực thi, tổ chức, phối hợp thực hiện
quyền con người về hôn nhân và gia đình;
* Thứ tư, cần tạo ra cơ chế linh hoạt, đa
dạng hơn nữa trong công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn
nhân và gia đình. Bên cạnh cơ chế chính thức (hoạt động của các cơ quan
Nhà nước, tổ chức có thẩm quyền) cần khuyến khích và tạo điều kiện cho
các thiết chế không chính thức công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con
người về hôn nhân và gia đình (gia đình, dòng họ, chức sắc tôn giáo, tổ
chức phi chính phủ, dịch vụ, tư vấn hỗ trợ pháp lý…);
* Thứ năm, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến về quyền con người nói chung, quyền con người
về hôn nhân và gia đình nói riêng theo hướng thiết thực, chiến lược và
hiệu quả hơn. Đặc biệt phải đưa môn học về quyền con người, trong đó có
quyền con người về hôn nhân và gia đình vào chương trình đòa tạo bắt
buộc của hệ thống các trường chuyên nghiệp trở lên và là nội dung bắt
buộc trong môn giáo dục công dân ở phổ thông.
SOURCE: CHUYÊN ĐỀ HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ
“Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” – ĐƠN VỊ TỔ
CHỨC: VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ ĐẠI SỨ QUÁN ĐAN MẠCH TẠI VIỆT
NAM, NGÀY 27 – 28/3/2009. HÀ NỘI
0 comments:
Post a Comment