THS. BÙI MINH HỒNG – Khoa Luật dân sự – Đại học Luật HN (NCS tại CH Pháp)
Trong đời sống
giao lưu dân sự, kinh tế, có rất nhiều chủ thể mang tư cách vợ (hoặc
chồng). Việc thực hiện những quan hệ này còn phải tuân theo những quy
định của Luật hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản
của vợ chồng. Tuy nhiên, thực tiễn lập pháp và nghiên cứu ở Việt Nam về
vấn đề này dường như còn khá mới mẻ. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy Pháp luật của Cộng hoà Pháp có nhiều quy định quan trọng mà chúng
ta có thể tham khảo. Trong bài viết này, tác giả chỉ tập trung giới
thiệu về “Sự hợp tác của vợ và chồng trong các hoạt động sản xuất, kinh
doanh”, mà tác giả cho rằng chúng có thể có giá trị cho sự hoàn thiện
pháp luật Việt Nam phù hợp với đà phát triển của xã hội.
I. Những quy định của luật chung liên quan đến các hoạt động nghề nghiệp của vợ chồng
1.1. Quyền tự chủ của vợ, chồng về nghề nghiệp
Trong phần quy định về các nghĩa vụ và quyền của vợ
và chồng, Bộ luật dân sự (BLDS) đã ghi nhận một quyền rất quan trọng cho
mỗi bên vợ chồng: quyền tự chủ về nghề nghiệp. Điều 233 quy định: “Mỗi
bên vợ chồng có quyền tự do thực hiện nghề nghiệp, thu những món lợi và
tiền lương và định đoạt nó sau khi đã đóng góp trách nhiệm đối với đời
sống chung”. Sự tự chủ về nghề nghiệp có ý nghĩa đảm bảo cho vợ, chồng
thực hiện được trách nhiệm của mình đối với đời sống gia đình nhưng
không phá vỡ trật tự của hoạt động về nghề nghiệp đã được tiến hành từ
trước khi kết hôn hoặc được thiết lập trong thời kỳ hôn nhân. Hơn nữa,
quy định này còn mang một giá trị là nhằm giải phóng và phát triển năng
lực của cá nhân.
Trên cơ sở quyền tự chủ này, khi điều chỉnh về quyền
quản lý tài sản chung của vợ chồng, BLDS đã quy định về một hình thức
quản lý riêng biệt, theo đó chỉ có một bên vợ hoặc chồng mới có quyền
quản lý định đoạt : Vợ chồng thực hiện nghề nghiệp riêng có quyền một
mình thực hiện những hành vi quản lý và định đoạt cần thiết cho nghề
nghiệp đó (Điều 1421, khoản 2).
Các hoạt động về nghề nghiệp của vợ và chồng có thể
diễn ra một cách đa dạng dưới nhiều hình thức: làm công hưởng lương hoặc
tổ chức, quản lý một doanh nghiệp.
Phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, nhà làm
luật của Pháp đã ban hành nhiều văn bản quy định về các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh của vợ chồng, như: Luật ngày 4 tháng 7 năm 1980 và Luật
ngày 9 tháng 7 năm 1999 về sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp; Luật
ngày 10 tháng 7 năm 1982 về sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực thủ công
nghiệp và thương mại… Những quy định này hiện nay đã được đưa vào trong
các Bộ luật tương ứng: Bộ luật về nông thôn (Code rural), Bộ luật
thương mại (Code du Commerce)
Trong bối cảnh có nhiều chế độ tài sản có thể điều
chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, quy định về quyền tự chủ về nghề
nghiệp (trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh) là một trong những
quy định của chế độ chung áp dụng cho mọi trường hợp. Vợ chồng có thể
thoả thuận về việc quản lý doanh nghiệp, thanh toán lợi nhuận nhưng họ
không thể thoả thuận để phá bỏ nội dung của Điều 233 BLDS.
1.2. Các chế độ tài sản của vợ chồng chi phối các hoạt động nghề nghiệp của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp những quy
định về các quan hệ tài sản của vợ và chồng đối với nhau và đối với
người thứ ba (1).
Chế độ tài sản của vợ chồng ở Pháp được thực hiện
trên cơ sở nguyên tắc tự do cam kết thoả thuận của các bên vợ chồng. Vì
vậy, pháp luật đã tạo ra một sự đa dạng về các chế độ tài sản của vợ
chồng, bao gồm chế độ tài sản của vợ chồng do luật định (Chế độ tài sản
pháp định) và các chế độ tài sản được lập ra theo những thoả thuận của
các bên vợ chồng (Các chế độ tài sản ước định). Theo đó, vợ chồng có
quyền lựa chọn một chế độ tài sản phù hợp với điều kiện gia đình, điều
kiện kinh tế của mình. Nguyên tắc tự do thoả thuận về chế độ tài sản của
vợ chồng còn được thể hiện ngay cả khi chế độ tài sản của vợ chồng đã
được xác định (pháp định hoặc ước định), họ vẫn có quyền thay đổi chế độ
đó bằng một chế độ khác. Tất nhiên, sự thay đổi này phải tuân theo
những điều kiện đã được dự liệu trong Bộ luật dân sự.
Do có nhiều chế độ tài sản trong hôn nhân như vậy, để
xác định nội dung của quyền sở hữu của vợ chồng, chúng ta cần phải căn
cứ vào chế độ tài sản đã được lựa chọn áp dụng.
1.2.1. Chế độ tài sản pháp định
Luật của Cộng hoà Pháp thực hiện chế độ tài sản pháp
định với bản chất là chế độ cộng đồng tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân.
Với quan điểm coi tài sản của vợ chồng là một gia tài
(patrimoine), luật của Pháp đã chia tài sản của họ thành hai khối: tài
sản có và tài sản nợ.
1.2.1.1. Khối tài sản cộng đồng
Tài sản chung của vợ và chồng được xác định theo một
tư tưởng chủ đạo là: “tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân”. Quy định
về sự suy đoán tài sản được thực hiện theo tinh thần này. Theo đó, những
tài sản xuất hiện trong thời kỳ hôn nhân được suy đoán là tài sản chung
nếu các bên vợ, chồng liên quan không chứng minh được đó là tài sản
riêng của mình theo các quy định của pháp luật.
Phần có của cộng đồng tài sản được quy định tại điều 1401 Bộ luật dân sự (BLDS), gồm những loại tài sản sau:
a- Những tài sản mà vợ chồng (một bên hoặc cả hai bên) làm ra trong thời kỳ hôn nhân;
b- Những tài sản mà vợ, chồng có được từ công việc
làm ăn của mỗi bên, như tiền lương, các khoản lợi và những tài sản có
được từ tiền lương và những khoản lợi ấy;
c- Những khoản tiết kiệm trên những hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng của họ;
d- Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho, hoặc di tặng chung (Điều 1405)
e- Tài sản chung do kết quả của một sự thay thế vật
có nguồn gốc từ tài sản chung. Những tài sản mới thay thế cho những tài
sản chung nào đó, luôn mang tính chất là tài sản chung;
f- Tài sản chung do kết quả của việc sáp nhập: một
tài sản riêng sáp nhập vào tài sản chung với tính chất là phần phụ của
tài sản chung, tài sản sáp nhập này chuyển thanh tài sản chung. Tuy
nhiên, khi thanh toán cộng đồng tài sản, chủ sở hữu của tài sản riêng đã
sáp nhập vào tài sản chung có quyền đòi lại một khoản bồi hoàn.
1.2.1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng
a- Tài sản riêng theo bản chất
BLDS Pháp, tại Điều 1404 đã liệt kê những loại tài sản riêng do bản chất của nó, bao gồm:
- Những quần áo, đồ dùng cá nhân của mỗi bên vợ chồng.
- Những công cụ lao động cần thiết cho nghề nghiệp
của mỗi bên vợ chồng, trừ trường hợp đó là phần phụ của một cơ sở thương
mại hoặc một cơ sở sản xuất là bộ phận của cộng đồng tài sản;
Xuất phát từ những quy định về quyền tự chủ của vợ,
chồng trong các hoạt động nghề nghiệp, luật đã thừa nhận rằng trong
những trường hợp vợ hoặc chồng thực hiện nghề nghiệp riêng, thì họ là
chủ sở hữu riêng đối với những công cụ lao động cần thiết cho những hoạt
động đó. Tuy nhiên, để đảm bảo sự công bằng cho vợ và chồng, Luật Pháp
luôn nghĩ tới một sự đền bù cần thiết. Nếu những công cụ lao động này có
được từ cộng đồng tài sản (mua bán, trao đổi) thì khi thanh toán tài
sản, người vợ hoặc chồng là chủ sở hữu của công cụ lao động phải bồi
hoàn lại cho cộng đồng tài sản theo giá trị ở thời điểm thanh toán.
- Những tài sản phát sinh từ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần của vợ hoặc chồng;
- Những quyền đòi nợ và những khoản trợ cấp không thể chuyển nhượng;
- Những tài sản khác, theo nghĩa chung nhất, có tính cách cá nhân và những quyền gắn liền với con người, bao gồm:
b- Tài sản riêng theo nguồn gốc
Đó là những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi
kết hôn, hoặc có được trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho, được
thừa kế, được di tặng riêng.
c- Tài sản riêng do tính chất của sự thay thế
Luật Pháp tồn tại một lý thuyết về sự thay thế vật.
Theo lý thuyết này, mặc dù tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân
nhưng do nguồn gốc, nó vẫn là tài sản riêng. Xuất phát từ một thực tế
dịch chuyển các tài sản của vợ chồng do các giao dịch bán, trao đổi tài
sản, trong khi tài sản có xu hướng bị thu hút về khối tài sản chung do
sự suy đoán tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân, nhà làm luật đã quy
định về những hình thức: “thay thế vật tự động” và “thay thế không tự
động”.
Thay thế đương nhiên là trường hợp thay thế vật một
cách trực tiếp, chẳng hạn trường hợp được quy định tại Điều 1407 BLDS:
tài sản mới có được do đổi một tài sản riêng, tài sản mới này vẫn là tài
sản riêng; nếu khi đổi tài sản, vợ chồng đã lấy tài sản chung để bù vào
thì khi thanh toán tài sản, họ phải bồi hoàn lại cho tài sản chung.
Thay thế không đương nhiên là trường hợp thay thế vật
gián tiếp qua một tài sản khác và được thực hiện theo một thể thức
tuyên bố. Một tài sản mới có được do vợ hoặc chồng bán tài sản riêng của
mình và dung nó để mua một tài sản khác. Theo quy định của Điều 1434, khi thực hiện giao dịch đối
với tài sản mới này, vợ, chồng phải tuyên bố là mua cho chính họ. Nếu
không thực hiện thể thức này trong lúc giao dịch, thì việc thay thế chỉ
có giá trị nếu cả hai vợ chồng đồng ý và điều đó chỉ có giá trị trong
quan hệ giữa vợ và chồng mà không có giá trị đối với người thứ ba.
1.2.1.3. Quyền quản lý, định đoạt tài sản
a- Quyền quản lý, định đoạt tài sản chung
Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng được thể hiện rất rõ
trong những quy định về quản lý tài sản. Quyền quản lý tài sản (hiểu
theo nghĩa rộng, bao gồm quyền chiếm hữu, hưởng dụng và định đoạt tài
sản) có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chủ sở hữu bởi thông qua đó,
chủ sở hữu tiến hành khai thác những giá trị của tài sản. Xuất phát từ
thực tế của đời sống gia đình và xã hội, Luật của Pháp đã phân chia
quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng theo ba hình thức:
* Quyền quản lý tài sản của mỗi bên vợ và chồng (gestion concurrente)
Dưới hình thức quản lý này, mỗi bên vợ hoặc chồng có
quyền một mình quản lý, và định đoạt tài sản chung với điều kiện phải
chịu trách nhiệm về lỗi của mình trong việc quản lý. Giao dịch do một
bên thực hiện mà không có sự gian lận, sẽ ràng buộc trách nhiệm đối với
vợ (chồng) của họ (Điều 1421, khoản 1 BLDS).
* Quyền quản lý chung của vợ chồng (gestion conjointe)
Đối với những loại tài sản quan trọng hoặc trong một
số giao dịch, vợ (chồng) không thể thực hiện một mình thực hiện giao
dịch khi không có sự đồng ý của người kia.
Về tài sản, vợ (chồng) không thể chuyển nhượng, xác lập vật quyền đối với:
- Bất động sản;
- Các cơ sở thương mại và mọi cơ sở khai thác;
- Các cổ phần không thể chuyển nhượng;
- Các động sản hữu hình mà việc chuyển nhượng phải tuân theo thể thức công bố.
Vợ (chồng) cũng không thể thu những khoản vốn từ những hoạt động đó, nếu không có sự đồng ý của người kia (Điều 1424 BLDS).
Đối với các loại giao dịch không có tính chất đền bù:
- Vợ (chồng) không thể tặng cho người khác tài sản mà không có sự đồng ý của người kia;
- Vợ (chồng) chỉ có thể di tặng phần tài sản của mình trong khối tài sản cộng đồng.
* Quyền quản lý riêng biệt (gestion exclusive)
Đó là quyền quản lý tài sản gắn liền với nghề nghiệp
của mỗi bên vợ, chồng. Chỉ người vợ (chồng) thực hiện nghề nghiệp riêng
mới có quyền quản lý, định đoạt cần thiết đối với nghề nghiệp đó ( khoản
2, Điều 1421 BLDS).
b- Quyền quản lý, định đoạt tài sản riêng
Nguyên tắc tự do quản lý, định đoạt tài sản riêng
được thể hiện tại Điều 1428 BLDS: “Mỗi bên vợ chồng có quyền tự do quản
lý, hưởng dụng và định đoạt tài sản riêng của mình”. Theo đó, vợ chồng
có quyền tự mình quyết định đem tài sản riêng để góp vốn vào các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, định đoạt nó theo yêu cầu của việc khai thác, quản
lý doanh nghiệp. Vợ chồng có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc uỷ
quyền cho người khác quản lý.
Tuy nhiên, do có những nghĩa vụ đối với đời sống gia
đình, trong một số trường hợp, pháp luật có những quy định hạn chế quyền
tự do quản lý, định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng. Chẳng hạn, để bảo
vệ chỗ ở của gia đình, khoản 3 Điều 215 BLDS có quy định: vợ, chồng
không thể định đoạt những quyền đảm bảo về chỗ ở của gia đình cũng như
những đồ đạc trong nhà nếu không có sự đồng ý của bên kia. Quy định này
áp dụng chung cho các trường hợp, không phân biệt nhà ở đó là tài sản
chung hay tài sản riêng.
1.2.1.4. Phần nợ của tài sản vợ chồng
a- Xác định các khoản nợ của vợ chồng
* Phần nợ của cộng đồng tài sản (Điều 1409 BLDS):
- Những khoản tiền cấp dưỡng có tính chất cố định mà
vợ chồng phải thực hiện; những khoản nợ mà họ đã vay để duy trì đời sống
gia đình và giáo dục con;
- Những khoản nợ khác nảy sinh trong thời kỳ của chế
độ tài sản: đó là những khoản nợ phát sinh từ những giao dịch hợp pháp
của vợ và chồng hoặc của mỗi bên vợ, chồng, trong đó có những khoản nợ
chung phát sinh từ những hoạt động sản xuất, kinh doanh.
* Phần nợ riêng của mỗi bên vợ, chồng
Điều 1410 BLDS có quy định về những khoản nợ có tính
chất cá nhân gồm: những khoản nợ mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc
gắn liền với những tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng.
Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất của các giao dịch
làm phát sinh nghĩa vụ, trong nhiều trường hợp, mà cần xác định một
khoản nợ thuộc cộng đồng tài sản hay thuộc nghĩa vụ riêng của vợ, chồng.
Chẳng hạn, những khoản nợ phát sinh từ những giao dịch nhằm thoả mãn
nhu cầu của cá nhân vợ, chồng: mua, bán tài sản riêng; những nghĩa vụ
phát sinh từ hành vi trái pháp luật…
b- Thực hiện nghĩa vụ và đóng góp thực hiện nghĩa vụ
Thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở mối quan hệ giữa vợ,
chồng với chủ nợ: chủ nợ có quyền kiện ai trên những tài sản nào, thậm
chí có quyền yêu cầu kê biên những tài sản đó để đảm bảo việc thanh toán
nợ.
Đóng góp thực hiện nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng:
khoản nợ đó sẽ được thanh toán bằng nguồn tài sản nào, vợ chồng có
trách nhiệm đóng góp để trả khoản nợ đó, nếu đó là khoản nợ của cộng
đồng tài sản.
Luật của Pháp có những quy định khá
cụ thể về những trường hợp thực hiện nghĩa vụ. Thông thường, việc thực
hiện nghĩa vụ chỉ đặt ra đối với người có nghĩa vụ; chủ nợ chỉ có quyền
đối với bản thân người mắc nợ. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ
trong những trường hợp này còn “vướng” tới chế độ tài sản của vợ chồng.
Do vậy, trong chế độ tài sản của vợ chồng, Luật của Pháp có những quy
định riêng điều chỉnh vấn đề này. (Xem các Điều từ 1411 đến 1418 BLDS).
Chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này trong phần nghiên cứu việc thanh toán nghĩa vụ trả nợ của vợ, chồng trong các doanh nghiệp.
1.2.2. Các chế độ tài sản theo hôn ước
Khi vợ chồng lựa chọn một chế độ tài sản không phải
là chế độ tài sản pháp định, họ có quyền thoả thuận những nội dung của
chế độ đó theo quy định của Điều 1497 BLDS và các quy định khác trong
phần các chế độ tài sản theo thoả thuận. Nếu trong những chế độ này mà
vợ chồng không có những điều khoản riêng thì những nội dung của chế độ
tài sản được giải quyết theo các quy định tương ứng trong chế độ tài sản
pháp định.
1.2.2.1. Các chế độ cộng đồng tài sản
a- Chế độ cộng đồng toàn sản
Chế độ này xác định rằng tất cả những tài sản của vợ
chồng dù có trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối
tài sản cộng đồng. Chỉ có những tài sản có tính chất là tài sản riêng
theo quy định tại điều 1404 vẫn tồn tại là tài sản riêng, trừ khi vợ
chồng có thoả thuận khác.
Cộng đồng tài sản phải gánh chịu tất cả những khoản
nợ của vợ chồng đã có trước khi kết hôn cũng như sẽ nảy sinh trong thời
kỳ hôn nhân.
b- Chế độ cộng đồng về động sản và những tài sản tạo ra trong
thời kỳ hôn nhân
Tài sản chung của vợ và chồng gồm những tài sản chung
theo chế độ pháp định; những động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được
trước khi kết hôn và các động sản mà mỗi bên được tặng cho, được thừa kế
trong thời kỳ hôn nhân (trừ trường hợp người tặng cho, người để lại di
sản thừa kế có quy định khác) . Những tài sản riêng theo bản chất được
quy định tại Điều 1404 vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người.
Phần nợ của cộng đồng tài sản bao gồm những khoản nợ
theo quy định của chế độ tài sản pháp định, những khoản nợ mà mỗi người
có trước khi kết hôn và những khoản nợ gắn liền với việc được thừa kế,
được tặng cho tài sản.
Trong chế độ này, vợ chồng có thể thoả thuận về vấn
đề cùng quản lý đối với tất cả những tài sản chung; về trích khấu tài
sản, về quyền lợi của mỗi bên…theo quy định trong BLDS.
1.2.2.2. Các chế độ phân tách tài sản
Trong thực tế, đây là những chế độ tài sản được nhiều
khi cặp vợ chồng quan tâm họ có những hoạt động sản xuất, kinh doanh,
bởi vì đó là một cơ chế rõ ràng về tài sản và về trách nhiệm đối với vợ
và chồng.
a- Chế độ tách riêng tài sản
Trong chế độ này, vợ chồng không có tài sản cộng
đồng. Mỗi bên giữ quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt đối với khối
tài sản thuộc về mình.
Mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm về những khoản nợ
riêng và có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu chung của gia đình. Việc thực
hiện theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
b- Chế độ đóng góp những tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân
Đây được coi là một chế độ tài sản hỗn hợp: tách
riêng tài sản trong thời kỳ hôn nhân và cộng đồng tài sản khi chấm dứt
hôn nhân.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng thực hiện chế độ
tách riêng tài sản, mỗi bên giữ một phần tài sản riêng và quyền quản lý,
hưởng dụng và định đoạt. Vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện những nghĩa
vụ riêng bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi chấm dứt hôn nhân,
mỗi bên được hưởng một nửa những tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân mà hiện còn.
II. Sự hợp tác của vợ và chồng trong các doanh nghiệp gia đình (Entreprises familiales) (2)
Trong Luật của Pháp có một số văn bản quy định về
hoạt động của những doanh nghiệp do vợ và chồng thành lập và tổ chức
quản lý. Những quy định này nhằm bổ khuyết cho hệ thống các quy định của
Luật thương mại, Luật công ty về một hình thức theo mô hình gia đình.
Thực tế, đây là sự cần thiết của công tác lập pháp, bởi vì khác với
những chủ thể kinh doanh khác, quan hệ giữa vợ và chồng phản ánh những
tính chất riêng và các quan hệ về tài sản của họ đang bị điều chỉnh bởi
các chế độ tài sản theo quy định của Luật về gia đình.
2.1. Hợp tác giữa vợ và chồng trong việc quản lý doanh nghiệp
2.1.1. Quyền quản lý của vợ chồng trong các doanh nghiệp tư nhân
Trong một doanh nghiệp tư nhân của vợ chồng, một bên
vợ hoặc chồng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp với tư cách là chủ
doanh nghiệp còn bên kia tham dự một cách ngang bằng hoặc thứ yếu. Hai
vợ chồng có tư cách là người cùng khai thác nếu họ đã thực hiện những
hoạt động liên quan với tính chất là những hoạt động chính của viêc khai
thác. Trong trường hợp sự cùng hợp tác khai thác là không ngang nhau,
người vợ, chồng ở vị trí thứ yếu sẽ đóng vai trò làm đại lý hoặc người
hưởng lương của người kia (chủ doanh nghiệp).
2.1.1.1. Quy chế của vợ (chồng) của người chủ doanh nghiệp
Vợ (chồng) của chủ doanh nghiệp tham gia vào các hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân, tuỳ theo mức độ của sự tham gia đó, với
những quy chế khác nhau. Luật ngày 4/7/1980 về hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp có quy định về sự khai thác chung của vợ và chồng. Theo quy
định của Luật ngày 10/7/1982, vợ (chồng) của chủ doanh nghiệp về thủ
công hoặc thương mại có thể tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp với
tư cách là người hợp tác, cổ đông hoặc người làm công. Về tư cách cổ
đông của vợ (chồng), chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau (hoạt động của
vợ và chồng trong các công ty).
a- Quy chế của người vợ (chồng) “hợp tác và cùng khai thác”
* Điều kiện để hưởng quy chế “hợp tác và cùng khai thác”
Thứ nhất, cần phải khẳng định chỉ những vợ chồng hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công và
thương mại mới mang quy chế này. Đối với những người vợ chồng hợp tác
trong các nghề tự do, họ không có quy chế dân sự. Điều 46 Luật ngày
17/01/2002 về hiện đại hoá doanh nghiệp có dự liệu rằng: vợ (chồng) hợp
tác trong một nghề tự do có thể nhận từ chủ doanh nghiệp những uỷ quyền
rõ ràng và trong giới hạn xác định để thực hiện những hành vi về quản lý
và hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, việc xác định điều kiện để hưởng quy chế này
tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực. Trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ những vợ
và chồng thực tế “cùng khai thác và cho chính họ ở cùng một cơ sở nông
nghiệp” (Điều L.321-1, khoản 1 Bộ luật về nông thôn) mới có thể được
hưởng quy chế cùng khai thác. Đối với những hoạt động trong lĩnh vực thủ
công và thương mại, đó phải là những hoạt động được đăng ký trong khuôn
khổ của một doanh nghiệp gia đình theo quy định của Luật ngày
10/7/1982. Ngay tại Điều 1 của Luật này khi quy định về các tư cách của
vợ (chồng) tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp có quy định rằng:
người vợ (chồng) hợp tác được nêu tên trong sổ đăng ký thương mại và
công ty, trong danh sách những nghề nghiệp hoặc trong sổ đăng ký các
doanh nghiệp được lưu giữ bởi Trung tâm quản lý nghề nghiệp Alsace và
Moselle.
* Đối tượng của quy chế về “hợp tác và cùng khai thác” của vợ (chồng) của chủ doanh nghiệp
Quy chế về hợp tác và cùng khai thác trao cho người vợ (chồng) quyền đại diện liên quan đến những hành vi quản lý theo yêu cầu của việc khai thác hoặc của doanh nghiệp.
Ngoài những trường hợp thực hiện quyền đại diện do uỷ quyền theo quy
định chung (thoả thuận rõ ràng về sự uỷ quyền cho vợ hoặc chồng), người
vợ (chồng) có tư cách hợp tác và cùng khai thác trong doanh nghiệp được
hưởng một sự suy đoán về uỷ quyền theo các quy định của pháp luật.
Luật pháp không có một sự giải thích cụ thể thế nào
là “những hành vi quản lý theo yêu cầu của việc khai thác hoặc của doanh
nghiệp”. Trong bối cảnh đó, sự giải thích trong các học thuyết đã được
nhiều người chấp nhận, đó là “những hành vi (giao dịch) mà người hợp tác
hoặc cùng khai thác thực hiện một cách khách quan là cần thiết, ít nhất
là có ích cho việc tiến hành các hoạt động của doanh nghiệp, mà không
kéo theo những cam kết vượt quá khả năng của doanh nghiệp”(3).
b- Quy chế của người vợ (chồng) làm công
Như trình bày ở phần đầu, trong trường hợp vợ và
chồng cùng tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng ở những vị
trí khác nhau, một bên là chủ doanh nghiệp, bên kia là người làm công
hưởng lương.
Tuy nhiên, trong một thời gian rất dài, luật pháp
cũng như các học thuyết và án lệ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không xác
định được tính chất của mối quan hệ này. Một câu hỏi lớn đặt ra là: liệu
giữa vợ và chồng có thể tồn tại một hợp đồng lao động không? Nguồn gốc
của sự khó khăn là do tính chất khác nhau của hai mối quan hệ. Quan hệ
giữa vợ và chồng đòi hỏi một nghĩa vụ trợ giúp của các bên – nghĩa vụ
không phải thanh toán, trong khi đó quan hệ lao động phản ánh yếu tố phụ
thuộc – giữa người chủ và người làm thuê. Đó chính là khó khăn khi muốn
dung hoà giữa quy chế hôn nhân và quy chế nghề nghiệp.
Cuối cùng, luật về xã hội và về thuế và đặc biệt là
vai trò của Luật ngày 10 tháng 7 năm 1982 điều chỉnh đối với những vợ
chồng hoạt động trong các lĩnh vực thủ công và thương mại cũng đã xác
định được quy chế của người vợ, (chồng) làm việc cho chồng (vợ) của mình
– với tư cách là người khai thác, quản lý doanh nghiệp. Đó là quy chế
của người làm công (conjoint salarié). Điều L.243 của Luật năm 1982 này
(trở thành Điều L.311-6 của Bộ luật về an sinh xã hội quy định về người
vợ (chồng) làm công (conjoint salarié) như sau : tham gia thực sự vào
doanh nghiệp hoặc vào hoạt động của chồng (vợ) mình với tính cách nghề
nghiệp và thường xuyên và nhận lương phù hợp với lương thông thường của
loại công việc đó.
2.1.1.2. Sự đại diện của vợ, chồng trong việc quản lý doanh nghiệp
a- Thực hiện quyền đại diện của vợ, chồng
Quyền đại diện của vợ chồng đã được quy định trong
phần các nghĩa vụ và quyền của vợ và chồng, trong các quy định về quản
lý tài sản (chung và riêng) của BLDS. Việc đại diện của vợ hoặc chồng
trong quản lý hoạt động của doanh nghiệp cũng như thực hiện những giao
dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng dựa
trên cơ sở thoả thuận của vợ và chồng (một cách rõ ràng) hay một sự cho
phép ngầm định (biết người kia quản lý nhưng không phản đối).
Trong những trường hợp vợ chồng cùng khai thác, quản lý, Luật còn thừa nhận một sự suy đoán về uỷ quyền
của vợ chồng cho nhau. Sự suy đoán này tạo thành một hình thức đại diện
khác: đại diện theo pháp luật. Đó là kết quả của việc lập pháp về các
doanh nghiệp gia đình trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công, thương
mại. Điều L.321-1, khoản 2 Bộ luật về nông thôn (Code rural) có quy
định: khi các bên vợ chồng cùng khai thác một cơ sở nông nghiệp, họ được
suy đoán là đã trao cho nhau sự uỷ quyền để tiến hành những hành vi
quản lý liên quan đến yêu cầu của việc khai thác. Trong lĩnh vực thủ
công và thương mại, theo quy định của Bộ luật thương mại, người vợ
(chồng) hợp tác được coi như đã nhận được từ chủ doanh nghiệp một sự uỷ
quyền nhân danh mình để tiến hành những công việc quản lý liên quan đến
nhu cầu của doanh nghiệp (Điều L.121-6 khoản 1).
Khoản 2 Điều 1421 BLDS có quy định: Người vợ (chồng)
thực hiện nghề nghiệp riêng có quyền một mình tiến hành những hành vi
quản lý, định đoạt cần thiết cho nghề nghiệp của mình. Đây là quyền
riêng biệt của người vợ hoặc chồng khai thác trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Tuy nhiên, vợ (chồng) nhận được sự uỷ quyền của người kia dưới các hình
thức khác nhau sẽ thực hiện các hành vi quản lý, định đoạt cần thiết
theo nhu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với tư
cách của nguời đại diện. Trong những trường hợp này, chúng ta thấy rằng,
những hành vi quản lý của vợ và chồng về tài sản hay hoạt động của
doanh nghiệp chuyển từ hình thức quản lý riêng biệt (gestion exclusive)
sang hình thức quản lý của mỗi bên vợ, chồng (gestion concurrente).
b- Rút quyền đại diện của vợ chồng
Trong trường hợp quyền đại diện phát sinh do sự thoả
thuận của vợ chồng, việc rút quyền đại diện được thực hiện theo quy định
của Điều 218 BLDS. Theo quy định này, người vợ, chồng đã uỷ quyền có
thể tự do huỷ bỏ uỷ quyền trong mọi trường hợp.
Nếu quyền đại diện phát sinh do sự uỷ quyền ngầm
định, thì việc huỷ bỏ uỷ quyền đó phải thực hiện thông qua sự phản đối
của người vợ, chồng là chủ sở hữu (Theo quy định của các Điều 1432 và
1540 BLDS).
Đối với trường hợp quyền đại diện phát sinh do sự suy
đoán về uỷ quyền theo các quy định pháp luật. Theo quy định tại Bộ luật
về nông thôn (Điều L.321-1) và Bộ luật thương mại (Điều L.121-6), để
chấm dứt quyền đại diện, chủ doanh nghiệp phải tuyên bố huỷ bỏ sự uỷ
quyền trước công chứng viên và người vợ (chồng) của mình.
2.1.2. Hợp tác của vợ chồng trong việc quản lý các công ty
Luật pháp hiện hành không có những quy định riêng về
loại hình công ty của vợ chồng. Trên cơ sở các loại hình công ty luật
định, vợ chồng có thể lựa chọn một mô hình phù hợp. Điều 1832-1 BLDS đã
dự liệu về một trường hợp trong đó vợ và chồng sử dụng tài sản cộng đồng
để tạo ra một công ty và họ trở thành thành viên của công ty đó : Nếu
chỉ dùng tài sản cộng đồng để góp vốn vào công ty hoặc mua cổ phần thì
chỉ hai vợ chồng hoặc với những nguời khác có thể là thành viên trong
cùng một công ty và cùng tham gia hoặc không vào việc quản lý công ty.
Trong những trường hợp đó, pháp luật quy định về tư cách thành viên công
ty của vợ và chồng cũng như những thể thức thực hiện các hoạt động
trong công ty. Bên cạnh đó, do còn « đóng vai » chủ thể của quan hệ hôn
nhân nên vợ chồng còn phải tuân theo những quy định của chế độ tài sản
áp dụng đối với mình.
2.1.2.1. Góp vốn vào công ty hoặc mua cổ phần của công ty
a- Thể thức dùng tài sản chung để góp vốn hoặc mua phần quyền sở hữu của công ty
Theo các quy định chung về cùng quản lý tài sản chung
của vợ chồng trong các chế độ cộng đồng tài sản, nếu một bên định đoạt
tài sản phải có sự đồng ý của bên kia. Tuy nhiên, để dễ dàng cho vợ
(chồng) thực hiện nguyên tắc tự chủ về nghề nghiệp, trong một số trường
hợp cụ thể, luật công ty đã sử dụng một giải pháp linh hoạt hơn là đòi
hỏi một sự ưng thuận của chồng (vợ) của họ.
Khoản 1 Điều 1832-2 BLDS quy định : Vợ hoặc chồng
không thể sử dụng tài sản chung để góp vốn vào công ty hoặc mua những cổ
phần không thể chuyển nhượng của công ty mà không thông báo cho chồng
hoặc vợ mình biết và không thể hiện rõ điều đó trong giao dịch, nếu
không thực hiện quy định này, họ sẽ phải chịu chế tài theo quy định của
Điều 1427.
Như vậy, trong trường hợp một bên vợ (chồng) dùng tài
sản chung để góp vốn vào công ty hoặc mua lại những cổ phần không thể
chuyển nhượng của công ty, họ chỉ có trách nhiệm thông báo cho chồng
(vợ) mình biết và minh thị rõ trong văn bản giao dịch về nguồn gốc của
phần vốn góp và cổ phần mua lại trong công ty. Nghĩa vụ thông báo được
quy định ở khoản 1 Điều 1832-2 này, thực chất, có mục đích đặt người vợ
(chồng) được thông báo vào một giải pháp thực hiện quyền đòi hỏi về tư
cách thành viên công ty cho mình (nếu họ muốn), theo quy định của khoản 3
Điều này. Theo tinh thần của điều luật này, nếu vợ (chồng) không đồng ý
với hành vi của người kia thì điều đó chỉ có ý nghĩa đối với việc họ
không mang tư cách thành viên của công ty mà không có ý nghĩa trong việc
yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
b- Tư cách thành viên công ty của vợ chồng
Theo quy định của khoản 2 Điều 1832-2 BLDS, tư cách
thành viên được thừa nhận đối với người vợ (chồng) góp vốn hoặc mua phần
quyền sở hữu của công ty. Nếu hai bên vợ và chồng có thể thoả thuận
rằng chỉ một trong hai người là thành viên của công ty thì họ cũng có
thể mong muốn cả hai trở thành thành viên công ty bằng cách mỗi người
lấy một phần của cộng đồng tài sản để đóng góp vào công ty. Thực tế, các
phần vốn góp của mỗi bên có thể khác nhau. Về nguyên tắc, mỗi bên có
phần quyền của thành viên công ty tương ứng với phần vốn góp của họ.
Tư cách thành viên công ty của cả hai vợ chồng cũng
được thừa nhận đối với trường hợp một bên dùng tài sản chung góp vốn vào
công ty hoặc mua những phần quyền sở hữu không thể chuyển nhượng được
mà đã thực hiện theo những thể thức được quy định tại khoản 1 Điều
1832-2 BLDS và bên kia đã thông báo cho công ty về mong muốn là thành
viên, theo quy định của khoản 3 Điều này. Trong trường hợp này, mỗi bên
có tư cách thành viên đối với một nửa số vốn đóng góp hoặc phần sở hữu
đã mua. Tuy nhiên, nếu vợ (chồng) của người đă đóng góp hoặc đã mua phần
quyền sở hữu đó không muốn trở thành thành viên công ty thì chỉ người
đã đóng góp, đã mua phần quyền sở hữu là thành viên của công ty.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng đối với việc định đoạt các quyền trong công ty
Quy định về quản lý tài sản chung của vợ chồng tại
Điều 1424 BLDS đòi hỏi sự đồng ý của hai vợ chồng khi định đoạt một số
loại tài sản chung, trong đó có xác định : các bên vợ chồng không thể
chuyển nhượng, xác lập vật quyền đối với những quyền của công ty không
thể chuyển nhượng được. Điều đó cho phép chúng ta hình dung ngay về một
yêu cầu huỷ bỏ giao dịch liên quan đến những quyền của công ty không thể
chuyển nhượng được do một bên vợ (chồng) thực hiện mà không có sự đồng ý
của bên kia.
Theo Điều 1427 BLDS, nếu vợ hoặc chồng đã vượt quá
quyền hạn của mình đối với tài sản chung thì người kia có thể yêu cầu
huỷ những giao dịch đó, trừ khi họ đã xác nhận văn bản ký kết. Thời hiệu
khởi kiện trong trường hợp này là 2 năm kể từ ngày biết có văn bản và
không quá 2 năm kể từ khi giải thể cộng đồng tài sản.
Trong thực tế, án lệ đã đưa ra những giải thích thú vị về việc áp dụng Điều 1427.
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện yêu cầu huỷ giao dịch
có thể vượt quá 2 năm kể từ ngày biết văn bản. Trong Quyết định ngày 15
tháng 7 năm 1993 (4), Toà phá án đã chấp nhận cách thức giải quyết của
các Thẩm phán, trong một vụ việc, khi họ cho rằng thời điểm để tính thời
hiệu khởi kiện bắt đầu từ ngày giao dịch được hoàn tất. Đó là trường
hợp người chồng một mình chuyển nhượng phần quyền sở hữu của
công ty (sở hữu chung) trong một điều kiện là bên mua được hoãn trả
tiền. Các Thẩm phán đă cho rằng thời hạn để người vợ khởi kiện huỷ giao
dịch bắt đầu từ ngày việc bán phần quyền sở hữu đó được hoàn thành, do
việc thực hiện điều kiện hoãn trả tiền. Như vậy, việc kiện yêu cầu huỷ
bỏ giao dịch có thể vượt quá 2 năm, kể từ ngày biết giao dịch đã được ký
kết.
Thứ hai, trái lại, trong Quyết định ngày 12 tháng 7
năm 1994 (5), Toà phá án đã tán thành với các Thẩm phán khi họ tuyên bố
không áp dụng chế tài được quy định tại Điều 1427. Vụ việc liên quan đến
một người chồng là bác sĩ đã tự mình bán phần quyền sở hữu không thể
chuyển nhượng được của công ty (thuộc cộng đồng tài sản). Trong quá
trình giải quyết, người này đã xuất trình một hối phiếu nhân danh hai vợ
chồng và có chữ ký của người vợ về việc thu tiền. Các Thẩm phán đã cho
rằng sự hiện diện của hối phiếu này chứng tỏ người vợ đã biết trước việc
chuyển nhượng, biết được việc thu tiền đó có ý nghĩa chấm dứt quyền sở
hữu của họ đối với những phần quyền trong công ty. Đó là một sự chấp
nhận mặc nhiên của người vợ, và vì vậy, yêu cầu huỷ giao dịch chuyển
nhượng do người chồng thực hiện đã bị các Thẩm phán bác bỏ.
2.2. Hưởng lợi nhuận và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp
2.2.1. Hưởng lợi nhuận của việc khai thác
Khác với vấn đề tổ chức và hoạt động của các doanh
nghiệp của vợ chồng, vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp này không
nhận được sự quan tâm riêng của nhà làm luật. Thực tế, để giải quyết vấn
đề này, cần phải dựa vào những quy định của luật gia đình về các chế độ
tài sản của vợ chồng.
Trong khung cảnh của các doanh nghiệp gia đình (doanh
nghiệp tư nhân hoặc công ty), việc xem xét giải quyết lợi nhuận đối với
vợ chồng phụ thuộc nhiều ở việc xác định đó là tài sản riêng hay là bộ
phận của tài sản cộng đồng. Nếu vợ chồng sống trong những chế độ tài sản
thoả thuận, việc xác định tính chất của lợi nhuận, phân chia lợi nhuận
sẽ phụ thuộc vào những thoả thuận của họ. Trong trường hợp chế độ tài
sản pháp định được áp dụng, lợi nhuận có được từ hoạt động của doanh
nghiệp bao gồm lợi tức, các khoản lợi có được…và tiền lương (của người
vợ (chồng) hưởng lương) đều thuộc về tài sản cộng đồng. Kể cả trường hợp
thực hiện nguyên tắc quyền tự chủ về nghề nghiệp theo quy định của Điều
223 BLDS (được tự do thu và định đoạt các món lợi và tiền lương sau khi
đã thanh toán trách nhiệm đối với gia đình), lương và những khoản lợi
còn lại vẫn là bộ phận của tài sản cộng đồng. Điều này dễ dàng được chấp
nhận bởi nó được tạo ra từ tài sản chung của vợ chồng hoặc từ lao động
của vợ hoặc chồng trong thời kỳ của chế độ tài sản. Những lợi ích này
nếu tiếp tục được dùng để đầu tư vào hoạt động của doanh nghiệp, nó vẫn
không mất đi tính chất của tài sản chung. Tương tự, nếu như vốn của
doanh nghiệp là tài sản riêng của vợ, chồng thì những lợi nhuận sinh ra,
tất cả đều thuộc tài sản cộng đồng, với tính cách là lợi tức sinh ra từ
tài sản riêng theo quy định của Điều 1401 BLDS.
2.2.2. Thực hiện những nghĩa vụ của doanh nghiệp
2.2.2.1. Trong trường hợp vợ và chồng có vai trò hợp tác ngang nhau
Trong những doanh nghiệp mà vợ và chồng đều có quyền
quản lý và tiến hành những hành vi cần thiết theo yêu cầu của việc khai
thác, (như chúng ta đã nói đến tư cách của người hợp tác, cùng khai thác
của họ) thì vợ và chồng phải cùng nhau chịu trách nhiệm về những khoản
nợ của doanh nghiệp.
a- Trong các doanh nghiệp tư nhân
* Quyền của chủ nợ phụ thuộc vào sự thừa nhận tư cách “cùng khai thác, hợp tác” của vợ chồng
Để xác định trách nhiệm của vợ, chồng, luật pháp đòi
hỏi một sự xác định về tư cách của vợ, chồng tham gia vào hoạt động của
doanh nghiệp. Việc xác định tư cách “hợp tác” của vợ (chồng) trong các
doanh nghiệp hoạt động về thủ công hoặc thương mại phải dựa vào sổ đăng
ký thương mại và công ty, trong danh sách những nghề nghiệp hoặc trong
sổ đăng ký các doanh nghiệp được lưu giữ bởi Trung tâm quản lý nghề
nghiệp Alsace và Moselle. Việc xác định tư cách “cùng khai thác” của
người vợ (chồng) trong doanh nghiệp về nông nghiệp thì phải căn cứ vào
thực tế hoạt động của họ: “cùng khai thác và cho chính họ ở cùng một cơ
sở nông nghiệp” (Điều L.321-1, khoản 1 Bộ luật về nông thôn).
* Quyền của chủ nợ đối với người vợ, chồng hợp tác, cùng khai thác
- Trong trường hợp hoạt động khai thác không hiệu quả
Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng không thể
thanh toán được những khoản nợ bằng phần tài sản có, thì một thủ tục
thanh toán pháp lý sẽ được tiến hành đối với nó. Thủ tục này sẽ chống
lại hai vợ chồng với tư cách là những người cùng quản lý doanh nghiệp,
mỗi người chịu sự điều chỉnh bởi một thủ tục theo quy định của luật
chung áp dụng đối với các con nợ trong tình trạng ngừng việc trả nợ. Qua
việc đánh giá khả năng tài chính của từng bên vợ, chồng, Thẩm phán
quyết định một bên – người có thể thanh toán được nghĩa vụ bằng tài sản
hiện có của mình, phải trả nợ chung.
Khi thanh toán cộng đồng tài sản, người vợ (chồng) đã
dùng tài sản riêng của mình để trả nợ chung có quyền yêu cầu tài sản
cộng đồng bồi hoàn lại cho mình theo những quy định của chế độ tài sản.
- Trong trường hợp việc khai thác có lãi
Đối với trường hợp hoạt động về thương mại, việc cùng
khai thác của hai vợ chồng là cơ sở xác định nghĩa vụ liên đới về việc
trả nợ. Trong một vụ việc thực tế, hai vợ chồng kết hôn dưới chế độ tách
riêng tài sản cùng hợp tác vào hoạt động khai thác cơ sở thương mại,
Toà thương mại của Toà phá án, tại quyết định đưa ra ngày 19/5/1982 đã
cho rằng người vợ phải liên đới cùng với chồng trả khoản nợ trong tài
khoản được người chồng mở tại một cơ sở tín dụng. Toà đã chỉ ra rằng
người vợ đã cùng khai thác sản nghiệp một cách “thường xuyên và không
phụ thuộc vào người chồng”, trong khi khoản nợ đang tranh chấp đã được
ký kết vì nhu cầu của hoạt động thương mại. Sự tham gia quản lý doanh
nghiệp một cách ngang bằng, tương ứng với sự ngang bằng về trách nhiệm
đối với những khoản nợ của doanh nghiệp. Hơn nữa, do đây là một hoạt
động thương mại nên sự suy đoán về nghĩa vụ liên đới gắn liền với tư
cách thương gia của cả hai bên vợ và chồng. Thực tế, chủ nợ của cơ sở
khai thác có quyền khởi kiện một trong hai bên vợ chồng về toàn bộ số
nợ. Vợ và chồng phải đảm bảo việc thanh toán nợ bằng tất cả tài sản của
họ, bất kể họ kết hôn dưới chế độ tài sản nào.
b- Trong các công ty
* Quyền của chủ nợ đối với các công ty có tư cách pháp nhân
- Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn
Trách nhiệm của vợ chồng là thành viên của công ty
chỉ giới hạn trong phần vốn góp. Vợ chồng là người điều hành quản lý
công ty (có thể chí gồm hai vợ chồng). Do đó, vợ và chồng phải cùng chịu
trách nhiệm về phần nợ của công ty. Chủ nợ có quyền kiện vợ hoặc chồng
và quyền đó bị giới hạn trên những tài sản đã đưa vào hoạt động trong
công ty.
- Đối với các công ty trách nhiệm vô hạn
Ở Pháp tồn tại một số loại hình công ty mà các thành
viên phải chịu trách nhiệm vô hạn. Trong các công ty này, vợ chồng phải
chịu trách nhiệm vô hạn về phần nợ của công ty. Trách nhiệm đó có thể là
liên đới hoặc không. Trong trường hợp vợ chồng phải chịu trách nhiệm
liên đới (công ty hợp danh), chủ nợ có quyền yêu cầu vợ hoặc chồng thực
hiện nghĩa vụ trên tất cả tài sản của họ. Nếu không có trách nhiệm liên
đới (công ty dân sự), mỗi bên vợ chồng phải chịu trách nhiệm về phần nợ
của công ty theo tỷ lệ phần quyền sở hữu của họ trong công ty, và cam
kết thực hiện bằng những tài sản khác của họ.
* Quyền của chủ nợ đối với các công ty không có tư cách pháp nhân
Luật của Pháp có quy định về một hình thức công ty mà
khi thành lập, các thành viên có thể thoả thuận là không cần đăng ký,
được gọi là “Công ty dự phần”. Công ty dự phần không có tư cách pháp
nhân. Vợ chồng có thể là thành viên của công ty này.
Về nguyên tắc, mỗi thành viên giao kết nhân danh cá
nhân mình và chịu trách nhiệm cá nhân đối với người thứ ba. Chủ nợ có
quyền kiện cá nhân mỗi bên vợ hoặc chồng về những nghiã vụ phát sinh từ
giao dịch đã thực hiện đối với mình. Vợ, chồng phải cam kết cho những
nghĩa vụ của mình bằng phần vốn góp vào công ty và những tài sản khác
của họ.
Tuy nhiên, “nếu những người tham gia hành động với tư
cách là thành viên công ty mà người thứ ba biết rõ về điều này thì mỗi
người trong số họ phải chịu trách nhiệm đối với người thứ ba về những
nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch do những người khác thực hiện với
tư cách này, nếu trong công ty thương mại thì nghĩa vụ đó là nghĩa vụ
liên đới, trong những trường hợp khác nghĩa vụ đó không liên đới” (Khoản
2 Điều 1872-1 BLDS). Như vậy, trách nhiệm vô hạn của các bên vợ chồng
có thể là liên đới hay không phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của công
ty.
2.2.2.2. Trong trường hợp sự hợp tác của vợ và chồng không ngang nhau
Sự hợp tác không ngang nhau của vợ và chồng thể hiện ở
tư cách, vai trò của họ trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của
doanh nghiệp: một bên là người khai thác; bên kia là người làm công
hưởng lương, là đại lý hoặc là thành viên công ty nhưng không quản lý.
Tuy nhiên, sự khác nhau về vai trò quản lý đó không thể phá bỏ được mối
liên hệ về hôn nhân của họ mà trong đó các bên đều được hưởng lợi nhuận
từ doanh nghiệp, và vì thế, không thể, một mặt, loại trừ trách nhiệm của
người vợ (chồng) tham gia vào doanh nghiệp chỉ có tính chất bổ trợ, mặt
khác, bắt người quản lý doanh nghiệp phải gánh chịu tất cả nghĩa vụ của
doanh nghiệp. Song, vấn đề là cũng cần phải có một cơ chế giải quyết
phần nợ của doanh nghiệp một cách hợp lý, trên cơ sở mối quan hệ giữa
quyền quản lý doanh nghiệp và trách nhiệm trực tiếp của người quản lý.
a- Trong các doanh nghiệp tư nhân
Nếu vợ chồng kết hôn dưới các chế độ tài sản riêng rẽ
thì chỉ người vợ (chồng) khai thác phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ
của doanh nghiệp bằng tài sản riêng của họ, trách nhiệm đó không ràng
buộc đối với người chồng (vợ) là đại lý hoặc hưởng lương (Điều 1536
khoản 2 và Điều 1569 khoản 1 BLDS).
Nếu vợ chồng có chế độ cộng đồng tài sản (pháp định
hay ước định), người vợ (chồng) khai thác phải cam kết trách nhiệm đối
với chủ nợ bằng tài sản cộng đồng và tài sản riêng của mình, theo quy
định của khoản 1 Điều 1418 BLDS. Do xác định đây là phần nợ chung của
cộng đồng tài sản, nên vợ chồng sẽ dùng tài sản chung để thanh toán
nghĩa vụ.
Trong trường hợp người vợ (chồng) của người khai thác
chỉ hành động nhân danh chồng (vợ) mình trong khuôn khổ một sự đại diện
theo pháp luật, theo thoả thuận hoặc theo quyết định tư pháp thì chỉ
người chồng khai thác – chủ nhân của quyền quản lý doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm trước chủ nợ về những hậu quả mà người đại diện đã gây
ra. Việc thực hiện nghĩa vụ và đóng góp thực hiện nghĩa vụ được giải
quyết giống như những trường hợp nêu trên, tức là tuỳ thuộc vào chế độ
tài sản của vợ chồng.
b- Trong các công ty có tư cách pháp nhân
Trong khuôn khổ của một công ty chỉ có hai vợ chồng,
một người mặc dù có tư cách thành viên nhưng không thể vì thế mà tham
gia vào việc lãnh đạo công ty bên cạnh chồng (vợ) của mình. Bên cạnh đó
còn có những công ty đối vốn đơn giản mà vợ (chồng) là người hùn vốn và
quản lý duy nhất.
Người vợ (chồng) là thành viên chỉ phải đóng góp vào
những tổn thất của công ty trong phạm vi vốn góp của mình mà không thể
bị khởi kiện do những nghĩa vụ của công ty. Người vợ (chồng) quản lý
công ty công ty trách nhiệm hữu hạn của vợ chồng không những phải chịu
trách nhiệm đối với phần nợ của công ty bằng phần vốn góp của mình, mà
còn phải chịu trách nhiệm về những vi phạm trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý công ty. Người vợ (chồng) hùn vốn và quản lý công ty
đối vốn phải đáp ứng một cách vô hạn về phần nợ của công ty, với một sự
bảo lưu duy nhất là đòi hỏi chủ nợ của công ty cần ưu tiên quyền đòi nợ
trước hết đối với phần có của công ty (Điều L.624-1 Bộ luật thương mại).
Tài liệu tham khảo:
1. (1): xem Giáo trình Luật dân sự-Những chế độ
tài sản của vợ chồng của François Térré – Giáo sư trường Đại học tổng
hợp Panthéon-Assas (Paris II) và Philippe Simler – Giáo sư trường Đại
học tổng hợp Robert-Schuman (Strasbourg III), xuất bản lần thứ tư, 2005,
Dalloz.
2. (2): Xem Doanh nghiệp gia đình (Tuyển chọn
luận án tiến sĩ) của Anne KARM (Giáo sư về luật tư của khoa Luật, trường
Đại học tổng hợp Rennes 1), Nhà xuất bản Defrénois, 2004
3. (3): Doanh nghiệp gia đình (đã dẫn), trang 48-49
4. (4): Tạp chí luật dân sự, I, số 255, án lệ, 1994, Philippe SIMLER
5. (5): Tạp chí luật dân sự, I, số 246, D.1995, François LUCET
6. Xem Giáo trình Luật dân sự-Gia đình của Gérard
Cornu – Giáo sư trường Đại học tổng hợp Panthéon-Assas (Paris II),
trang 65, in lần thứ chín, 2006, Montchrestien.
7. Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại, Bộ luật về giao thông, Bộ luật lao động, Bộ luật về an sinh xã hội
8. Luật ngày 4/7/1980 về hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, Luật ngày 10/7/1982 về các doanh nghiệp gia đình trong
lĩnh vực thủ công và thương mại…
SOURCE: ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI. NĂM 2007 – 2008. CHỦ
BIÊN: TS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN (TÊN ĐỀ TÀI CHƯA XÁC ĐỊNH)
0 comments:
Post a Comment