THS. NGUYỄN HỒNG HẢI – Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
Tài sản
của vợ chồng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) của
các nước trên thế giới được qui định gắn liền với các điều kiện kinh tế –
xã hội, chế độ sở hữu, truyền thống, phong tục, tập quán, tâm lý,
nguyện vọng của người dân… Do đó, giữa các nước khác nhau thường có
những qui định khác biệt về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, về cơ bản
tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai căn cứ: Sự thoả thuận
bằng văn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo các qui định
của pháp luật (chế độ tài sản pháp định).
1. Tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên cơ sở hôn ước – Chế độ tài sản ước định
Hôn ước (hôn khế) là sự thoả thuận bằng văn bản (hợp đồng) do vợ chồng lập trước khi kết hôn để qui định chế độ tài sản của vợ chồng trong
suốt thời kỳ hôn nhân (1). Nội dung của hôn ước thường xác định tài sản
của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó cũng
như trong việc thực hiện các giao dịch giữa họ với người thứ ba.
Xác định tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước
được xuất phát từ quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Theo
họ, hôn nhân thực chất là một loại hợp đồng dân sự, hôn nhân chỉ khác
với các loại hợp đồng dân sự thông thường khác ở tính chất “long trọng”
trong thiết lập (việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước
hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một nghi thức đặc biệt được qui định
trong pháp luật) và trong việc chấm dứt (hôn nhân chỉ chấm dứt khi có sự
kiện chết, có tuyên bố của Toà án một bên vợ, chồng đã chết hoặc khi có
bản án hoặc quyết của Toà án về ly hôn có hiệu pháp luật, tất cả các
trường hợp chấm dứt này phải tiến hành theo những thủ tục hành chính
hoặc thủ tục tố tụng tại Toà án được pháp luật qui định). Bên cạnh đó,
nhà làm luật ở các nước phương tây cũng đề cao quyền tự do cá nhân,
quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ, chồng. Với quan niệm trên, tự
do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi
qui định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ ở hầu
hết các nước phương Tây.
Theo nguyên tắc trên, trước khi kết hôn vợ chồng hoàn
toàn có quyền tự do lập hôn ước để qui định chế độ tài sản của họ. Họ
muốn lựa chọn chế độ tài sản nào cũng được, pháp luật chỉ can thiệp và
qui định chế độ tài sản của vợ chồng khi họ không lập hôn ước. Điều 755
và Điều 756 Bộ Luật Dân sự Nhật Bản, Điều 1465 Bộ Luật Dân sự và thương
mại Thái Lan, Điều 1387 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp (Luật số 65-570
ngày 13/7/1965)… đều qui định: Vợ chồng có thể tự do lập hôn ước, miễn
là những thoả thuận trong hôn ước không trái với thuần phong mỹ tục hoặc
không trái với các qui định của pháp luật về điều kiện thừa nhận tính
hợp pháp của hôn ước.
Như vậy, tài sản của vợ chồng không nhất thiết do
pháp luật qui định mà do chính bản thân vợ chồng tự thoả thuận tài sản
nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng. Vợ chồng có thể thoả
thuận trên cơ sở lựa chọn theo một chế độ tài sản
được qui định trong pháp luật hoặc họ có thể chọn một chế độ tài sản
riêng biệt, hoàn toàn độc lập với chế độ tài sản theo qui định của pháp
luật.
Các thoả thuận của vợ chồng trong hôn ước mang tính ổn định cao. Về nguyên tắc, sau khi kết hôn việc thực hiện hôn ước là “bất di bất dịch”,
Điều 1395 Bộ Luật Dân sự Pháp năm 1804 qui định: Hôn ước không thể thay
đổi sau khi đã kết hôn. Tuy nhiên, nguyên tắc hôn ước không thể thay
đổi trong thời kỳ hôn nhân có một hạn chế cơ bản là nó có thể gây ra
những ảnh hưởng không tốt đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ,
chồng hay của người thứ ba có quan hệ giao dịch với vợ chồng khi vợ
chồng đã chọn lầm một chế độ tài sản hoàn toàn không phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện nghề nghiệp, thu nhập; hoặc, chế độ
tài sản mà vợ chồng lựa chọn có thể chỉ phù hợp ở giai đoạn đầu, còn sau
đó các qui định trong chế độ tài sản đã lựa chọn lại cản trở việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ họ, cũng như lợi ích của gia đình. Để khắc phục
hạn chế trên, hiện nay, pháp luật một số nước đã thừa nhận, các thoả
thuận trong hôn ước có thể được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân với
những điều kiện pháp lý chặt chẽ, Điều 1397 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp
(Luật số 65-570 ngày 13/7/1965, Luật số 89 – 18 ngày 13/1/1989) qui
định:
Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thoả thuận hoặc theo Luật định, hai vợ chồng có thể, vì lợi ích của gia đình, xin sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một chứng thư có chứng thực của công chứng viên và được Toà án nơi cư trú phê chuẩn [2].
Bộ Luật Dân sự Nhật Bản
không qui định cụ thể về vấn đề này, nhưng theo Điều 758, 759: Tài sản
thuộc sở hữu chung có thể được thay đổi hoặc phân chia trong trường hợp
vợ chồng có thoả thuận hoặc trong trường hợp vợ, chồng quản lý tài sản của
nhau, nhưng người đó thực hiện quản lý tài sản không tốt và người kia
đã yêu cầu Toà án HN&GĐ tước bỏ việc quản lý nói trên. Việc thay đổi
hoặc phân chia tài sản chung không được sử dụng để chống lại người thừa
kế hợp pháp của chồng hoặc vợ, trừ khi việc này đã được đăng ký. Như
vậy, theo pháp luật Nhật Bản, những căn cứ xác định tài sản của vợ chồng
được qui định trong hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với
thực tế tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản giữa vợ và
chồng.
Với việc thừa nhận các thoả thuận trong hôn ước có
thể thay đổi trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật đã tạo cho vợ chồng quyền
chủ động hơn trong việc qui định chế độ tài sản của mình. Tuy nhiên,
điều đó vẫn không thể khắc phục được một hạn chế cơ bản của chế độ tài
sản ước định là quá chú trọng đến lợi ích cá nhân của vợ, chồng, lợi ích
của gia đình bị xem nhẹ, hoặc lợi ích của gia đình được xem xét theo ý
thức chủ quan “thuần tuý” của vợ chồng, dẫn đến mâu thuẫn bản chất của hôn nhân là tính chất cộng đồng và bản chất của gia đình là “bổn phận và trách nhiệm”. Do vậy, chế độ tài sản này thường không được pháp luật HN&GĐ các nước XHCN (trong đó có Việt Nam) ghi nhận.
2. Tài sản của vợ chồng được xác định theo các căn cứ Luật định – Chế độ tài sản pháp định
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản trong đó
pháp luật qui định cụ thể về căn cứ xác định tài sản của vợ chồng, quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản đó, cũng như trong việc thực
hiện các giao dịch giữa vợ chồng với người thứ ba.
Chế độ tài sản pháp định là một giải pháp được nhà
làm luật ở tất cả các nước ghi nhận trong pháp luật HN&GĐ. Có nước
qui định chế độ tài sản pháp định mang tính chất thay thế trong trường
hợp vợ chồng không có thoả thuận bằng hôn ước, hoặc với mục đích để vợ
chồng lựa chọn chế độ tài sản áp dụng cho họ (phổ biến trong pháp luật
về HN&GĐ ở các nước phương Tây như Pháp, Nhật Bản, Canađa,
Australia, Thái Lan…), Điều 1400 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp qui định: “Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản”
[3]; có nước qui định chế độ tài sản pháp định như là căn cứ duy nhất
để xác định tài sản của vợ chồng (phổ biến trong pháp luật HN&GĐ các
nước XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Liên xô cũ, Cu Ba…), Điều 29 Luật
gia đình Cộng hoà Cuba qui định:
Chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung theo qui định của Bộ luật này. Chế độ tài sản này áp dụng kể từ ngày việc kết hôn được chính quyền công nhận hoặc từ ngày có cuộc sống chung…; chế độ tài sản này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt không kể vì lý do gì.
Chế độ tài sản pháp định được qui định ở nhiều hình
thức khác nhau, nhưng tựu chung lại thường dưới hai hình thức: Chế độ
tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng (chế độ tài sản cộng đồng) và chế độ
tài sản theo tiêu chuẩn phân sản (chế độ phân sản)
2.1. Chế độ tài sản cộng đồng
Việc thừa nhận chế độ tài sản cộng đồng là xuất phát
từ quan điểm lợi ích của vợ chồng phải chịu sự chi phối bởi tính chất
cộng đồng của hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Do đó, chế độ tài
sản cộng đồng có đặc điểm cơ bản là trong quan hệ sở hữu giữa vợ và
chồng luôn tồn tại khối tài sản chung và các nghĩa vụ tài sản được bảo
đảm bằng tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, chế độ tài sản này không
tồn tại dưới một hình thức duy nhất mà được qui định dưới nhiều hình
khác nhau, trong đó chủ yếu ở ba hình thức sau:
* Chế độ cộng đồng tạo sản
Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc điểm, tài sản chung
của vợ chồng chỉ được xác định đối với những tài sản mà vợ, chồng có
được trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản khác không phân biệt động sản
hay bất động sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn, hay được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng
của vợ hoặc chồng.
Đây là giải pháp được qui định phổ biến trong pháp
luật về HN&GĐ của nhiều nước: Luật gia đình Cộng hoà Cu Ba (Điều 30
và 32), Luật gia đình Bun ga ri (Điều 13), Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp
(Từ Điều 1401 đến Điều 1408), Bộ Luật Dân sự Nhật Bản (Điều 762), Bộ
Luật Dân sự và thương mại Thái Lan (Điều 1471 và Điều 1474)… đều ghi
nhận chế độ tài sản cộng đồng này. Điều 13 Luật hôn nhân năm 1980 của
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa qui định: “Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra, mỗi bên có thể có tài sản riêng ngoài qui định trên” [4]. Điều
1401 Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp cũng qui định: Tài sản cộng đồng gồm
những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người
trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng
như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản
riêng của họ [4].
Việc chế độ cộng đồng tạo sản được thừa nhận rộng rãi
ở các nước là do chế độ tài sản cộng đồng này rất phù hợp với tình hình
thực tế ở mỗi nước. Một mặt, nó không làm phá vỡ chế độ tài sản chung
của vợ chồng – nền tảng cơ bản của quan hệ HN&GĐ, mặt khác chế độ
tài sản này còn tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng có thể chủ động
trong việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, ngăn chặn các
trường hợp kết hôn với mục đích không lành mạnh, việc kết hôn chỉ nhằm
vào khối tài sản đã sẵn có của bên kia.
* Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản
Chế độ cộng đồng động sản
và tạo sản cũng thừa nhận trong hôn nhân bao gồm có tài sản chung và
tài sản riêng của vợ, chồng như trong chế độ cộng đồng tạo sản. Tuy
nhiên, chế độ cộng đồng động sản và tạo sản lại xác định tài sản của vợ
chồng dựa trên việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất
động sản. Theo đó, khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ,
chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động
sản mà vợ, chồng mua lại bằng tài sản chung. Vợ, chồng có quyền sở hữu
riêng đối với bất động sản có trước khi kết hôn và bất động sản mà vợ,
chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Việc qui định chế độ
cộng đồng động sản và tạo sản là xuất phát từ quan điểm của nhà làm luật
một số nước cho rằng: Vợ, chồng phải để dành cho mình làm của riêng
những tài sản chính của mình và theo các nhà làm luật đó là bất động sản
(Bộ Luật Dân sự Pháp năm 1804, Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 của Chế độ
Sài Gòn cũ…). Vậy nên, chế độ tài sản cộng đồng này chỉ phù hợp với
giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội lấy bất động sản là tiêu chí xác
định thành phần chính yếu và chắc chắn của tài sản trong gia đình [5].
Trong điều kiện phát triển kinh tế ở mức công nghiệp hoá, hiện đại hoá
cao hiện nay, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng
dựa trên sự phân tách động sản và bất dộng sản đã mất đi sự công bằng
trong gia đình và đã không đảm bảo được mục đích đề ra ban đầu của nhà
làm luật, vì lúc này tài sản chính yếu không phải là bất động sản mà
thường là những tài sản thuộc về động sản, quyền tài sản hoặc các giấy
tờ trị giá được bằng tiền (cổ phiếu, chứng khoán…). Do đó, nhiều nước
trước đây thừa nhận chế độ cộng đồng động sản và tạo sản nay đã tìm một
chế độ tài sản cộng đồng khác thay thế để phù hợp với thực tiễn hơn. Ví
dụ: Luật số 65-570 ngày 13/7/1965 của Cộng hoà Pháp đã qui định chế độ
cộng đồng tạo sản thay cho chế độ cộng đồng động sản và tạo sản được qui
định trong Bộ Luật Dân sự năm 1804.
* Chế độ cộng đồng toàn sản
Khác với hai chế độ tài
sản cộng đồng trên, chế độ cộng đồng toàn sản không thừa nhận quyền sở
hữu riêng của vợ, chồng mà chỉ thừa nhận quyền sở hữu chung, theo đó
toàn bộ tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc
khối tài sản chung. Qui định đó xuất phát từ quan niệm nhu cầu chung,
lợi ích chung của gia đình là tối cao, tài sản của vợ chồng được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên tất cả tài sản vợ, chồng
có trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung, quyền
có tài sản riêng không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích của gia
đình. Với đặc điểm trên, chế độ cộng đồng toàn sản chỉ phù hợp với quan
hệ HN&GĐ trong xã hội truyền thống. Trong điều kiện phát triển kinh
tế – xã hội hiện nay, khi quyền tự do cá nhân luôn được đề cao, chế độ
cộng đồng toàn sản đã bộc lộ những hạn chế cơ bản, vì không đảm bảo
quyền tự định đoạt của người có tài sản, đặc biệt khi tài sản đó do vợ,
chồng làm ra trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng; nó cũng không đảm bảo được sự độc lập của vợ, chồng do họ
không có tài sản riêng để tham gia các quan hệ xã hội khác ngoài quan hệ
gia đình; mặt khác, việc chế độ cộng đồng toàn sản
được áp dụng trong giai đoạn hiện nay có thể khuyến khích cho các quan
hệ hôn nhân thực dụng. Vì vậy, các nước thường không lựa chọn chế độ tài
sản cộng đồng này
2.2. Chế độ phân sản
Chế độ phân sản là một hình thức của chế độ tài sản
pháp định, trong đó giữa vợ chồng không tồn tại chế độ tài sản chung, mà
mỗi bên vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản do mình
làm ra trước và trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật chỉ qui định nghĩa vụ
của vợ, chồng về đóng góp vào chi tiêu chung của gia đình.
Ngoài ra, chế độ phân sản còn có một biến thái là chế
độ hồi môn. Chế độ tài sản naỳ có nguồn gốc từ pháp luật La Mã cổ đại,
theo đó, những tài sản thuộc của hồi môn của người vợ sẽ giao cho người
chồng để người này quản lý và sử dụng. Như vậy, hoa lợi từ tài sản riêng
của người chồng và từ của hồi môn của người vợ thuộc về người chồng.
Đặc điểm của chế độ hồi môn là tài sản hồi môn không thể được chuyển
nhượng. Không những người chồng không có quyền bán tài sản hồi môn vì
người chồng không phải là chủ sở hữu, người vợ cũng không có quyền chấp
thuận để người chồng bán. Cho dù có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng,
tài sản hồi môn cũng không thể bán được. [6]
Trong quá khứ, chế độ tài sản này được áp dụng trong
Luật hôn nhân cổ truyền ở Italia và ở Anh từ năm 1857. Hiện nay, hầu như
các nước không thừa nhận chế độ tài sản này, vì nó có quan niệm “thái quá” trong việc đảm bảo lợi ích cá nhân của vợ, chồng, lợi ích của gia đình vì thế bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
———————————-
1. Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân (1968), Danh từ và Tài liệu Dân luật và Hiến luật, Tủ sách Đại học Sài Gòn;
2.3. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ Luật Dân sự của Cộng hoà Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
4. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Thông tin chuyên đề về Luật HN&GĐ, Hà Nội;
5.6. Bùi Tường Chiểu (1975), Dân luật, quyển II, Khoa Luật Đại học Sài Gòn.
SOURCE: DÀNH CHO CHUYÊN TRANG THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ
0 comments:
Post a Comment