THS. ĐOÀN THỊ PHƯƠNG DIỆP
Vấn đề tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
là lĩnh vực luôn xảy ra nhiều tranh chấp trong thực tiễn, đặc biệt là
khi vợ chồng phát sinh các mâu thuẫn. Một nguyên tắc góp phần giải quyết
tốt các tranh chấp này được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 (nguyên tắc này chưa có trong các Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959, 1986), đó là nguyên tắc suy đoán tài sản chung
Quan hệ tài sản giữa vợ chồng, hay chính xác hơn là
chế độ pháp lý về tài sản giữa vợ chồng là lĩnh vực thường xảy ra nhiều
tranh chấp trong thực tiễn, nên cần phải có một cơ chế pháp lý hoàn
chỉnh và phù hợp để giải quyết tốt những tranh chấp.
Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ) năm 2000 cũng
như Luật HNGĐ năm 1986 của Việt Nam thừa nhận sự cùng tồn tại của ba
khối tài sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng: tài sản chung của vợ
chồng, tài sản riêng của vợ và tài sản riêng của chồng. Trong đó, khối
tài sản chung của vợ chồng được người làm luật dành nhiều sự quan tâm,
bảo vệ; một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ khối tài sản chung
(người viết tạm đặt tên) lànguyên tắc suy đoán tài sản chung[1].
1. Luật HNGĐ năm 2000 quy định tại khoản 3 Điều 27:
Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng thì nó sẽ được suy đoán là tài sản chung.
Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của
vợ chồng được quy định tương đối cụ thể trong Luật HNGĐ, tuy nhiên,
trong thực tiễn, một khi đời sống chung giữa vợ chồng càng kéo dài thì
các tài sản sẽ có xu hướng không thể tránh khỏi là lẫn lộn với nhau, đặc
biệt khi vợ chồng xác lập nhiều các giao dịch liên quan đến tài sản. Do
đó, không phải lúc nào nguồn gốc của tài sản cũng có thể xác định được
theo các quy định về việc xác định tài sản chung (Điều 27) và tài sản
riêng (Điều 32). Trong bối cảnh đó, quy định về việc suy đoán tài sản
chung mà người làm luật đặt ra trong khoản 3 Điều 27 có ý nghĩa như một
nguyên tắc có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp
giữa vợ chồng với nhau về nguồn gốc tài sản. Tuy nhiên, với tư cách là
một nguyên tắc suy đoán, tác dụng của nguyên tắc này chỉ dừng lại ở chỗ
thiết lập một sự suy đoán, không có ý nghĩa khẳng định chắc chắn tất cả
tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Mặt
khác, nguyên tắc này còn có ý nghĩa như một trở ngại không những đối với
vợ, chồng trong việc chứng minh tài sản là của riêng, mà còn là trở
ngại đối với người thứ ba, cụ thể là các chủ nợ riêng của vợ, chồng (các
chủ nợ chỉ được đảm bảo thanh toán bằng tài sản riêng) trong việc yêu
cầu kê biên tài sản riêng. Các chủ nợ riêng này muốn kê biên tài sản
riêng của vợ, chồng mắc nợ, buộc phải chứng minh tài sản mà họ yêu cầu
kê biên là tài sản riêng của người mắc nợ.
Nếu việc suy đoán tài sản chung chỉ được ghi nhận một
cách đơn giản trong Luật HNGĐ Việt Nam thì trong luật Dân sự Pháp, vấn
đề này lại được quy định chi tiết tại Điều 1402: “mọi tài sản, dù là
động sản hay bất động sản, đều được coi là tài sản chung của vợ chồng,
nếu không chứng minh được đó là tài sản riêng của vợ hoặc của chồng theo
quy định của pháp luật”; “nếu không có chứng cứ hoặc dấu vết về nguồn
gốc của tài sản thì khi có tranh chấp, quyền sở hữu riêng của vợ chồng
phải được chứng minh bằng văn bản. Trường hợp không có bản kiểm kê tài
sản hoặc không có chứng cứ nào được xác lập từ trước, thẩm phán có thể
xem xét mọi loại giấy tờ, đặc biệt là các loại giấy tờ, sổ sách của gia
đình cũng như các tài liệu của ngân hàng và các hoá đơn thanh toán. Thẩm
phán cũng có thể chấp nhận lời khai của nhân chứng hoặc suy đoán nếu
nhận thấy vợ, chồng không có khả năng cung cấp chứng cứ bằng văn
bản”[1].
2. Điểm chung đầu tiên có thể thấy trong quy định của
luật Việt Nam và luật của Pháp, đó là sự suy đoán pháp lý về nguồn gốc
của tài sản. Khoản 3 điều 27 Luật HNGĐ quy định việc suy đoán này sẽ
được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp giữa vợ chồng về tài sản
chung hay riêng, tức là một trong số vợ hoặc chồng cho rằng, một hoặc
một số tài sản nào đó bất kỳ (cả động sản và bất động sản), tồn tại
trong thời kỳ hôn nhân của họ, là tài sản riêng của người này. Luật Việt
Nam không quy định đặc biệt gì về các loại bằng chứng được sử dụng để
chứng minh trong tranh chấp, tuy nhiên, với cách quy định trên của luật,
trong thực tiễn tất cả các loại bằng chứng đều có thể được chấp nhận,
cả bằng chứng viết, lời khai của nhân chứng, hóa đơn, chứng từ và hẳn
nhiên là cả sự thừa nhận của bên còn lại trong tranh chấp (nếu có).
Trong khi đó, các loại bằng chứng chứng minh trong
luật của Pháp được liệt kê tương đối cụ thể. Có thể thấy, loại bằng
chứng nặng ký đầu tiên, được thẩm phán chấp nhận đó là các bằng chứng
viết (preuve écrite). Có thể hiểu bằng chứng viết được đề cập trong quy
định này là các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng
với tài sản đang tranh chấp, biên bản kiểm kê tài sản (loại bằng chứng
thứ hai này được ghi nhận một cách chính thức trong luật Pháp nhưng có
vẻ chưa được thừa nhận chính thức trong luật Việt Nam).
Nguyên nhân của sự khác biệt trong quy định giữa luật
Việt Nam và luật của PhápN, là từ thời điểm Luật HNGĐ năm 2000 ban
hành, nhà làm luật Việt Nam đã quy định tại khoản 2 Điều 27: “nếu một
tài sản chung của vợ chồng buộc phải đăng ký quyền sở hữu thì trên giấy
chứng nhận quyền sở hữu sẽ phải ghi tên của cả hai vợ chồng”. Quy định
này được hướng dẫn thêm bởi Nghị định 70/CP (2001) hướng dẫn thi hành
Luật HNGĐ năm 2000 và Nghị quyết số 02/HĐTP -TANDTC ban hành ngày
23/12/2000. Cụ thể, theo hướng dẫn của nghị quyết nêu trên, thì trong
bối cảnh hiện nay, khi chúng ta chưa thể đồng loạt áp dụng quy định này
một cách triệt để, thì mặc dù giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chỉ
ghi tên một người, vợ hoặc chồng, tài sản đó vẫn được xem là tài sản
chung của vợ chồng (điểm 3b Nghị quyết). Hướng dẫn này đưa ra nhằm mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ hôn
nhân trong bối cảnh hiện nay, khi mà chỉ có một số tài sản có giá trị
lớn và theo quy định của luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu thì trên
giấy chứng nhận quyền sở hữu mới được ghi tên của cả hai vợ chồng.
Sau khi Tòa án nhân dân tối cao đưa ra hướng dẫn trên
thì đến năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định 70/CP hướng dẫn thi hành
Luật HNGĐ năm 2000, quy định rằng: ôCác tài sản thuộc sở hữu chung của
vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của vợ chồng theo quy
định tại khoản 2 Điều 27 Luật HNGĐ năm 2000 bao gồm: nhà ở, quyền sử
dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu (khoản 1 Điều 5); và Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng được thực hiện từ ngày Nghị định này có hiệu lực.
Như vậy, các quy định hiện nay thể hiện, giấy chứng nhận quyền
sở hữu tài sản, giấy đăng ký tài sản hay giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất sẽ là loại bằng chứng có giá trị pháp lý cao nhất trong việc chứng
minh tài sản là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của một
trong hai bên. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, các quy định của Nghị
định 70/CP vẫn chưa được áp dung một cách đồng bộ và hiệu quả, và do đó,
hướng dẫn của Nghị quyết số 02/HĐTP -TANDTC vẫn tiếp tục được sử dụng
với đầy đủ ý nghĩa ban đầu của nó, điều này nói lên rằng, giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam không được
xem là loại bằng chứng có giá trị pháp lý cao nhất để chứng minh việc
tài sản tranh chấp là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Do
vậy, trong việc chứng minh nguồn gốc tài sản bằng việc áp dụng nguyên
tắc suy đoán tài sản chung, các thẩm phán chấp nhận một cách rộng rãi
tất cả các loại bằng chứng có thể có một cách hợp pháp.
Trong khi đó, trong luật của Pháp, việc ghi nhận một
cách đồng bộ quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản đã đem lại cho loại bằng chứng này giá trị
chứng cứ, có thể nói là khá chắc chắn, được chấp nhận trong thủ tục
chứng minh tài sản riêng của vợ, chồng. Như vậy, việc chấp nhận một cách
rộng rãi các loại chứng cứ chứng minh trong luật Việt Nam đã tạo ra cho
các bên vợ, chồng nhiều thuận lợi trong việc bảo vệ quyền lợi của mình,
đặc biệt trong bối cảnh các loại tài sản có xu hướng lẫn lộn vào nhau.
3. Về lâu dài, để có thể bảo vệ một cách tốt hơn
quyền của chủ sở hữu tài sản riêng, các quy định của luật về việc ghi
tên chủ sở hữu và các quy định hướng dẫn của Nghị định 70/CP, nên được
tạo cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện. Cụ thể là triệt để áp dụng việc
ghi tên chung cho các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chung, và
từng bước tiến hành việc đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng
tài sản chung. Thực hiện tốt điều này sẽ làm giảm gánh nặng cho thẩm
phán trong việc xem xét và đánh giá chứng cứ, đồng thời cũng làm đơn
giản hoá công việc của vợ, chồng trong việc truy tìm các chứng cứ chứng
minh.
Có thể khẳng định là giải pháp về ghi tên cả hai chủ
sở hữu trong trường hợp tài sản là tài sản chung của vợ chồng sẽ không
làm vô hiệu hoá nguyên tắc suy đoán tài sản chung được ghi nhận trong
Luật HNGĐ năm 2000. Khẳng định này trước tiên được rút ra từ thực tiễn
áp dụng của luật dân sự Pháp. Bên cạnh đó, có thể thấy, trong các gia
đình Việt Nam, các tài sản thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu chưa
nhiều mà chủ yếu vẫn là các tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Do
đó, việc ghi tên chủ sở hữu là cả vợ, chồng sẽ không thể thực hiện được
một cách đồng bộ, vì vậy, nguyên tắc suy đoán tài sản chung sẽ vẫn còn
nguyên giá trị áp dụng trong thực tiễn. Hay có thể nói, giá trị thực
tiễn của nguyên tắc này dẫn đến một hệ quả là việc cấp, đổi giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản ghi tên chung của vợ chồng là chưa thực sự cần
thiết trong bối cảnh hiện nay.
Tóm lại, để góp phần giải quyết tốt các tranh chấp về
tài sản giữa vợ chồng, nguyên tắc suy đoán tài sản chung được đặt ra
như một công cụ pháp lý hữu hiệu trong luật Việt Nam cũng như trong luật
của Pháp. Để có thể phát huy hết vai trò của mình trong thực tiễn, đảm
bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay, nguyên tắc
này cần có một cơ chế pháp lý đảm bảo thực hiện phù hợp hơn trong thực
tiễn.
——–
[1] Bản dịch của Nhà pháp luật Việt Pháp, Nhà xuất bản Tư pháp 2005
[1]Thuật ngữ ” nguyên tắc suy đoán tài sản chung” còn
được sử dụng trong Bình luận khoa hoc về Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam của tập thể tác giả, Đinh Thị Mai Phương chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, 2004, tr.185; ôGiáo trình luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam,
tác giả Nguyễn Ngọc Điện, Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ. tập 2,
tr.46.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment