TƯỞNG DUY LƯỢNG – Chánh Tòa dân sự, TANDTC
Đất đai là tài nguyên
của quốc gia, là một loại tài sản đặc biệt, có ý nghĩa kinh tế chính
trị, xã hội, nó liên quan đến mọi người, mọi cơ quan, tổ chức, được nhà
nước hết sức quan tâm. Do đó, nó có một chế độ pháp lý riêng biệt. Có lẽ
không có loại tài sản nào gắn với mọi người, mọi nhà nhưng lại chỉ có
một chủ thể được quyền sở hữu đó là Nhà nước, còn người sử dụng đất, tuy
không phải là chủ sở hữu nhưng lại có 10 quyền tương tự như các quyền
của một chủ sở hữu tài sản và đương nhiên vì không phải chủ sở hữu nên
người sử dụng loại tài sản đặc biệt này có những hạn chế nhất định.
Kể từ năm 1980, khi hiến pháp quy định đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, đến nay quyền của người sử dụng đất không ngừng được
phát triển. Từ chỗ người sử dụng đất chỉ có quyền khai thác các công
dụng của đất đai, không có quyền mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp, thừa kế… quyền sử dụng đất. Tóm lại, người sử dụng đất không được
pháp luật cho phép thực hiện các giao dịch dân sự về đất đai, đến khi có
Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 1993 và đặc biệt là khi Bộ luật
Dân sự năm 1995 ra đời, thì Nhà nước đã thừa nhận cho người dân có 5
quyền sử dụng đất. Khi Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời, Nhà nước thừa
nhận người sử dụng đất có 10 quyền và trong tương lai các hạn chế về
quyền của người sử dụng đất sẽ ngày càng ít đi. Quyền năng của người
quản lý, sử dụng đất hợp pháp sẽ được bảo đảm ngày càng tốt hơn, thể
hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể và cũng là để quản lý, khai thác đất
đai có hiệu quả hơn.
Trong các quyền năng của người sử dụng đất, thì quyền
thừa kế có vị trí hết sức đặc biệt. Do tính chất pháp lý đặc thù của
loại tài sản này, nên Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định thừa kế quyền
sử dụng đất thành một chương riêng, nhưng Bộ luật Dân sự năm 2005 không
còn quy định chế độ pháp lý riêng biệt về thừa kế quyền sử dụng đất. Tuy
nhiên, khi xem xét về thừa kế quyền sử dụng đất thì phải vận dụng cả
các quy định của Luật Đất đai để việc giải quyết phù hợp với tính chất
đặc biệt của loại tài sản này.
Việc Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định điều kiện
được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi
trồng thuỷ sản, cũng như đất cấp cho hộ gia đình không được đem phân
chia theo pháp luật thừa kế khi có thành viên chết là không có ý nghĩa
thực tế, không phù hợp với tâm lý, tập quán của nhân dân cho nên giá trị
thi hành trên thực tế rất hạn chế. Đó là chưa kể quy định ở Điều 740 đã
tạo ra sự bất hợp lý mới: cũng là con cháu trong gia đình, có người
được hưởng thừa kế, có người không được hưởng, mà người không được hưởng
đôi khi lại chính là người đang làm nghĩa vụ với nhà nước, ví dụ như
lúc mở thừa kế họ đang tại ngũ nên không "có điều kiện trực tiếp sử dụng
đất đúng mục đích" thì có chia thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để
trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản cho họ không? hoặc giải thích
thế nào về cụm từ "có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích"?
phải chăng người được thừa kế quyền sử dụng đất phải trực tiếp cày, cuốc
trên mảnh đất thì mới coi là có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng
mục đích? Thực ra, quy định này đã không khuyến khích việc tích tụ, tập
trung đất để sản xuất trên quy mô lớn, không khuyến khích người dân tích
cực đầu tư, cải tạo đất… Nhận rõ những hạn chế trên, khi soạn thảo, ban
hành Luật Đất đai năm 2003, vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất đã có sự
thay đổi rất lớn, Luật Đất đai thực sự coi quyền sử dụng đất như một
loại tài sản, mặt khác đã thể hiện rõ quyền được hưởng thừa kế quyền sử
dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tại khoản 5 Điều 113
Luật Đất đai năm 2003 quy định:
"Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có
thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này
thì được nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nếu không thuộc đối tượng quy
định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được hưởng giá trị của phần
thừa kế đó".
Đối chiếu với quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 và
Luật Đất đai năm 2003, chúng tôi nhận thấy Luật Đất đai năm 2003 có
những điểm mới cơ bản về thừa kế quyền sử dụng đất. Những điểm mới về
thừa kế quyền sử dụng đất tiếp tục được thể hiện đầy đủ, rõ nét hơn
trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo quy định tại chương 33, phần thứ 5
Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: "cá nhân được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền
thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này
và pháp luật về đất đai" (Điều 734). Như vậy, không chỉ những trường
hợp được nhà nước giao đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có
quyền để thừa kế quyền sử dụng đất mà cả trường hợp được nhà nước cho
thuê đất cũng được để thừa kế quyền sử dụng đất. Đối với đất được Nhà
nước giao cho hộ gia đình thì việc thừa kế quyền sử dụng đất của hộ gia
đình đã được quy định hoàn toàn khác so với Bộ luật Dân sự năm 1995.
Theo quy định tại Điều 735 thì: "Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu
trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được
để lại cho những người thừa kế theo quy định tại phần thứ tư của Bộ
luật này và pháp luật về đất đai".
Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 không còn có sự phân
biệt việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và hộ gia đình. Theo Bộ
luật Dân sự năm 2005 thì đất cấp cho hộ gia đình cũng là đối tượng của
việc để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; và cũng không còn
sự phân biệt giữa các loại đất ở, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất nông
nghiệp để trồng cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản. Hay nói cách khác
là không đặt ra điều kiện khác nhau trong việc thừa kế quyền sử dụng đất
nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản với đất nông
nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng. Đây là một
quy định hoàn toàn hợp lý, phù hợp với thực tiễn cuộc sống và là một
thuận lợi cho các Toà án khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
Khi giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
thì Toà án không chỉ căn cứ vào Bộ luật Dân sự mà phải căn cứ vào Luật
Đất đai năm 2003 và các văn bản khác quy định về thừa kế quyền sử dụng
đất để giải quyết cho phù hợp.
Tại điểm d, đ khoản 1 Điều 99 Nghị định số
18/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm
2003 quy định: "d)- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
được nhận quyền sử dụng đất thông qua nhận thừa kế quyền sử dụng đất";
"đ- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc trường hợp quy định tại
Điều 121 của Luật Đất đai được nhận quyền sử dụng đất ở thông qua mua
nhà ở, nhận thừa kế nhà ở, được tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở".
Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và
Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tất cả các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư đều được nhận quyền sử dụng đất thông qua thừa kế quyền
sử dụng đất. Tuy nhiên, riêng đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thì theo quy định tại khoản 1 Điều 121 Luật Đất đai năm 2003, chỉ
những đối tượng dưới đây mới được nhận quyền sử dụng đất thông qua nhận
thừa kế: Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư
ở Việt Nam; người có công đóng góp với đất nước; những nhà hoạt động
văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam
nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước; người có nhu cầu về sống ổn
định tại Việt Nam; các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội. Những đối tượng này cũng chỉ được nhận quyền sử dụng đất
thông qua nhận thừa kế nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở. Ngoài
những đối tượng nêu trên, người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ được
hưởng giá trị của phần thừa kế quyền sử dụng đất đó.
Theo quy định tại Điều 80 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, thì kể từ ngày 01/7/2004, Toà án áp dụng các quy định
của Luật Đất đai năm 2003 về thừa kế quyền sử dụng đất để giải quyết,
còn nay Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có hiệu lực pháp luật thì phải đồng
thời áp dụng các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự để giải quyết.
Tuy nhiên, có một điểm lưu ý là:
Tại khoản 1 Điều 98 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm 2003 đã quy định:
"1- Thời điểm người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử
dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật về đất đai đối với đất do Nhà nước giao có thu tiền
sử dụng đất, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng phải nộp tiền sử
dụng đất được quy định như sau:
a) Trường hợp người sử dụng đất không được phép chậm
thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc không được ghi nợ nghĩa vụ tài chính
thì chỉ được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi thực
hiện xong nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp người sử dụng đất được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định cho chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc cho
ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì được thực hiện các quyền của người sử
dụng đất kể từ khi có quyết định đó;
c) Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện
nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật thì được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi
có quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, ký hợp
đồng thuê đất".
Từ quy định trên, có ý kiến cho rằng: đối với các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 98 nói trên thì thời điểm để người
sử dụng đất thực hiện các quyền sử dụng đất nói chung, để thừa kế quyền
sử dụng đất nói riêng là thời điểm người đó đã thực hiện xong nghĩa vụ
tài chính với Nhà nước hoặc từ thời
điểm người sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định
cho chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc cho ghi nợ nghĩa vụ tài
chính. Do đó, khi giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, Toà
án yêu cầu đương sự phải chứng minh người để lại di sản đã thực hiện
nghĩa vụ tài chính. Nếu người để lại di sản thừa kế quyền sử dụng đất
chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, thì ý kiến nói trên đã
đưa ra 2 phương án:
Phương án 1: Đối với trường hợp không được phép chậm
thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc không được ghi nợ nghĩa vụ tài chính,
Toà án phải buộc người nhận thừa kế quyền sử dụng đất phải thực hiện
nghĩa vụ tài chính đối với phần thừa kế mà họ được hưởng.
Phương án 2: Toà án yêu cầu những người khởi kiện
chia thừa kế phải tạm thực hiện nghĩa vụ tài chính thay người để lại di
sản. Sau khi họ thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, Toà án
mới thụ lý. Khi xét xử, cần buộc những người nhận thừa kế hoàn trả phần
nghĩa vụ mà người khác đã nộp thay cho mình.
Đối với trường hợp được phép chậm thực hiện nghĩa vụ
tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính, thì Toà án phải hỏi cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền về vấn đề này. Nếu cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền vẫn đồng ý cho phép những người nhận thừa kế quyền sử dụng đất
được chậm thực hiện nghĩa vụ hoặc được tiếp tục ghi nợ thì Toà án cho
người nhận thừa kế quyền sử dụng đất được hưởng thừa kế quyền sử dụng
đất; nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không cho phép người nhận thừa
kế quyền sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ hoặc không được tiếp
tục ghi nợ thì Toà án buộc người nhận thừa kế quyền sử dụng đất phải
thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước đối với phần thừa kế mà họ
được hưởng.
Chúng tôi cho rằng quan điểm trên có điểm không hợp
lý vì: Toà dân sự không có nghĩa vụ và không có quyền buộc các bên thực
hiện các quan hệ hành chính trong vụ án dân sự. Quan hệ hành chính là
quan hệ mệnh lệnh, còn quan hệ dân sự là sự bình đẳng giữa các bên. Nếu
có tranh chấp trong các quan hệ dân sự này, thì Tòa án chỉ là trọng tài
phán xét ai phải, ai trái, ai có quyền dân sự đến đâu.
Vì vậy, việc xét xử các vụ án dân sự là việc xác định
ai hiện đang có các quyền dân sự đó mà bị người khác tranh chấp, xâm
phạm thì phán quyết của Toà dân sự là khẳng định lại quyền dân sự mà họ
vốn có, chứ không tạo thêm cho họ bất kỳ một lợi ích, một quyền hay
nghĩa vụ dân sự mới nào và càng không được điều chỉnh các quan hệ hành
chính. Vì vậy, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính được quy định tại khoản
1 Điều 98 Nghị định số 181 nói trên là quan hệ hành chính giữa người để
thừa kế quyền sử dụng đất với Nhà nước. Thông thường họ phải thực hiện
nghĩa vụ tài chính với nhà nước (đối với trường hợp không cho chậm thực
hiện nghĩa vụ…) thì Nhà nước mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho họ và người sử dụng đất hợp pháp mới có quyền chuyển nhượng, để thừa
kế quyền sử dụng đất. Song do nhà nước thực hiện việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chậm nên tại Điều 146 Luật Đất đai đã cho phép
người sử dụng đất đã có các giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại
các khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai mà chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì cũng được thực hiện các quyền của người sử dụng
đất theo quy định của Luật Đất đai. Do đó, nếu có tranh chấp quyền thừa
kế mà đất đó đã có các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật
Đất đai thì Toà án vẫn căn cứ vào pháp luật về thừa kế và luật đất đai
để xác định quyền thừa kế quyền sử dụng đất của các bên đương sự. Sau
khi các bên đã được Toà án xác định quyền sử dụng đất theo thừa kế, muốn
được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất họ phải thực hiện
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Nhà nước và việc này do cơ quan
hành chính Nhà nước thực hiện. Với hướng xử lý như vậy vừa phù hợp với
thực tế, vừa phù hợp với thẩm quyền của mỗi bên mà vẫn bảo đảm được lợi
ích của Nhà nước.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT SỐ 1 NĂM 2007
0 comments:
Post a Comment