TS. CHU HẢI THANH
Ngày 09/6/2000 tại kỳ
họp thứ 7 khóa X Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình mới –
đây là đạo luật thứ ba trong vòng 40 năm qua về lĩnh vực hôn nhân và gia
đình ở nước ta.
Điều mới dễ nhận thấy nhất là quy mô của đạo Luật Hôn
nhân và gia đình lần này đã đạt mức độ hoàn chỉnh cao về dung lượng,
nhắm tới việc đáp ứng đầy đủ hơn yêu cầu điều chỉnh các quan hệ hôn nhân
và gia đình trong giai đọan phát triển mới của đất nước. So với 10 điều
liên quan trong Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, 6 chương 35 điều của
Luật Hôn nhân và gia đình 1959 và 10 chương 57 điều của Luật hôn nhân và
gia đình năm 1986 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với 13 chương
và 111 điều đã có bước tiến rất lớn, đạt tầm vóc của một bộ luật.
Nhưng việc đánh giá hiệu qủa và sự hoàn chỉnh của một
văn bản pháp quy quan trọng không chỉ căn cứ vào số lượng điều khoản,
mà vấn đề căn bản là phải xem xét những ưu điểm về nội dung mà văn bản
đó thể hiện. Những ưu điểm như vậy trong Luật Hôn nhân và gia đình mới
là rất nhiều.
Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng tôi xin chỉ đề
cập một số điểm mới nổi trội trong quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 về việc kết hôn nhằm góp phần quán triệt đầy đủ hơn nội
dung của nó.
Về căn bản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn
giữ quy định về 3 điều kiện tối thiểu phải có để được phép kết hôn vốn
đã định hình và mang tính truyền thống trong hai đạo Luật Hôn nhân và
gia đình trước đây là độ tuổi, sự tự nguyện của nam nữ và thủ tục đăng
ký việc kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (các Điều 9 và Điều
11).
Điểm mới cần ghi nhận ở đây là: các quy định về
việc đăng ký kết hôn đã cụ thể hơn và mang tính ràng buộc cao hơn. Nếu
như trong các đạo Luật Hôn nhân gia đình năm 1959 và năm 1986 vấn đề
đăng ký kết hôn chỉ được nêu một cách ngắn gọn chung trong một điều là
do ủy ban nhân dân xã, phường nơi thường trú của một trong hai đương sự
công nhận và ghi vào sổ kết hôn, thì nay vấn đề này được chi tiết hóa
bằng bốn điều luật.
Cụ thể: Điều 11 khẳng định dứt khoát rằng việc kết
hôn phải được đăng ký trong trình tự hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện theo quy định tại các Điều 12, 13 và 14. Ngoài ra,
trong Điều 11 nhà lập pháp cảnh báo rằng: “Nam, nữ không đăng ký kết hôn
mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận
là vợ chồng.” Để đảm bảo thực thi quy định này, Nghị quyết 35/2000/QH.10
ngày 09/6/2000 của Quốc hội (tại điểm b và c mục 3) và Thông tư liên
tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp (tại các mục 1, 2 và 3)
hướng dẫn: trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng, có đủ
điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn thì khi họ có yêu cầu ly
hôn Tòa án sẽ ra bản án không công nhận họ là vợ chồng. Đây là cách xử
lý mới đối với hành vi cố ý vi phạm quy định của luật về việc đăng ký
kết hôn, không phụ thuộc vào yêu cầu khởi kiện của các đương sự lúc ban
đầu.
Bản án phủ nhận một quan hệ pháp luật loại như vậy là
để làm cơ sở giải quyết các hậu qủa khác của sự trốn tránh hoặc coi
thường việc đăng ký kết hôn. Do, những nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng kia không vi phạm các điều kiện cho phép hoặc cấm kết hôn khác
nên Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là không công nhận quan hệ vợ chồng của
họ chứ không huỷ bỏ hay bắt buộc họ phải chấm dứt sự chung sống như
trên.
Về các trường hợp cấm kết hôn thì ngoài việc làm rõ
thêm các quy định đã có, trong điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 còn thể hiện một sự điều chỉnh và bổ sung rất đáng kể. Như tại
khoản 4 Điều 10 nêu trên, trong khi cụ thể hóa trường hợp cấm kết hôn
giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi thì đã bổ sung thêm việc
cấm kết hôn giữa “bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với
con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”. Đây là bổ sung sáng
suốt góp phần bảo vệ nền tảng đạo đức, sự trong sáng, lành mạnh và tôn
ti trật tự trong quan hệ gia đình mang bản sắc luân lý đặc trưng của dân
tộc Việt Nam.
Đối với một vấn đề gây tranh cãi và đang có những
cách giải quyết khác nhau trên thế giới việc kết hôn của những người
cùng giới tính thì thái độ của các nhà lập pháp Việt Nam thể hiện trong
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là dứt khoát: cấm kết hôn (khoản 5,
Điều 10). ở nước ta quan hệ đồng giới tính là một hiện tượng không mới
nhưng hiện nay lại đang nổi lên khá công khai, nhất là trong cư dân đô
thị. Về lâu dài, thiết tưởng cần có sự tìm hiểu, thống kê và nghiên cứu
đầy đủ với thái độ tôn trọng và cảm thông để áp dụng những giải pháp,
pháp luật thỏa đáng hơn cho vấn đề hôn nhân đồng giới.
Bên cạnh các bổ sung trên thì chúng ta không còn tìm
thấy trong đạo luật mới quy định cấm người đang mắc bệnh hoa liễu, cấm
anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha kết hôn với nhau như
đã từng đặt ra trong Điều 9 và 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959;
các điểm b và c Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
Về trường hợp bỏ cấm đoán kết hôn đối với người đang
mắc bệnh hoa liễu (và chúng ta liên tưởng đến cả người nhiễm HIV-AIDS)
có lẽ mang nhiều ý nghĩa nhân đạo. Bởi lẽ, những căn bệnh trên không thể
là lý do để tước bỏ quyền kết hôn của công dân khi họ có tình yêu
thương và thật sự tự nguyện chấp nhận cuộc sống lứa đôi trong hoàn cảnh
bệnh tật khó khăn đó. Mặt khác, đối với y học ngày nay thì việc ngăn
ngừa sự lây lan và chữa trị bệnh hoa liễu không còn là nan giải nữa.
Việc không có quy định trực tiếp cấm kết hôn giữa hai
người là anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha cần được
hiểu như thế nào? Những người này có liên hệ về huyết thống, do đó căn
cứ đoạn 2, mục 3 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì họ thuộc
diện có họ trong phạm vi ba đời, không được kết hôn với nhau. Hiểu như
vậy là theo đúng lô-gíc: giữa những người có họ trong phạm vi ba đời
(bao gồm trực hệ và bàng hệ) đều bị cấm kết hôn, trong đó anh chị em
cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thuộc trường hợp không thể cho
kết hôn với nhau được!
Vấn đề kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng
của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong
một gia đình chưa từng được dự liệu trong các đạo luật hôn nhân và gia
đình của chúng ta nhưng là một thực tế cần quan tâm.** Các chủ thể trên
là anh chị em trong gia đình, nhưng
giữa họ lại không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ họ hàng,
vậy nếu phát sinh việc kết hôn với nhau thì giải quyết ra sao ?
Về mặt đạo đức chúng ta không thể hoặc khó chấp nhận
con riêng của vợ với con riêng của chồng, các người con nuôi của cùng
cha mẹ nuôi hoặc con đẻ với con nuôi kết hôn với nhau, mặc dù về huyết
thống không có ảnh hưởng tiêu cực cho nòi giống. Khi hai người kết hôn
thuộc diện các đương sự trên yêu cầu chính quyền cho đăng ký kết hôn thì
cán bộ hộ tịch không tìm ra quy định pháp luật để giải quyết. Còn đôi
uyên ương lại lý sự: “Chúng tôi được làm những gì pháp luật không cấm!”.
Có phải là khó xử không?
Tóm lại, những quy định về điều kiện kết hôn trong
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có sự hoàn chỉnh, những cấm đoán
kết hôn không còn cần thiết cần được dỡ bỏ, công dân được tạo thuận lợi
nhiều hơn để hưởng quyền kết hôn xây dựng mái ấm gia đình – một trong
những quyền con người cơ bản nhất của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực này các nhà lập pháp cũng chưa phải lường hết việc phải làm.
Chú thích:
* Xem: Lê Hương Lan- Quy định về kết hôn và quan
hệ giữa vợ và chồng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Luật hôn nhân và gia đình năm
2000; Hà Nội, tháng 2-2001, tr. 87).
* Mục 3, 4 Điều 111 Bộ dân luật năm 1972 của chế
độ cũ miền Nam quy định: cấm hôn thú giữa những người con nuôi của cùng
một người và giữa những người con nuôi với con của người đứng nuôi.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT SỐ 1 NĂM 2008
0 comments:
Post a Comment