Hiện tượng đồng tính
luyến ái đang được thảo luận khá nhiều trên các phương tiện truyền thông
đại chúng, đặc biệt là sau sự xuất hiện của cuộc hôn nhân công khai đầu
tiên giữa hai người phụ nữ tại Hà Nội.
Có nhiều ý kiến thảo luận theo khuynh hướng mong muốn
xã hội cần cảm thông và thừa nhận hiện tượng này. Và cũng không phải
không có dấu hiệu cho thấy sự cảm thông đang bị đẩy thành một trào lưu
ủng hộ, nhất là trong giới trẻ, như thể càng tích cực ủng hộ thì càng
thể hiện quan điểm tiến bộ, hợp thời.
Nhưng có lẽ, trước khi bày tỏ thái độ về một vấn đề
xã hội đã tạo ra nhiều tranh luận không chỉ ở Việt Nam, chúng ta cần có
những đề tài thảo luận sâu hơn. Điều rõ ràng là hiện vẫn có nhiều nước
phương Tây tiên tiến chưa công nhận hiện tượng đồng tính dù các phong
trào đòi quyền bình đẳng cho người đồng tính đã phát triển mạnh. Ở đây,
chỉ xin đề cập vấn đề này dưới góc độ con cái của các cặp đồng tính.
Con số thống kê do P.Krémer công bố trên tờ Le Monde
(Pháp) từ gần mười năm trước cho biết ở Pháp có khoảng 50% số người đồng
tính đang sống cặp đôi với nhau, 10% đang có con cái và 40-50% số người
đồng tính muốn được làm cha mẹ. Như vậy hiện tượng cặp đôi đồng tính đã
tạo ra một mô hình gia đình mới mà cha mẹ là người đồng giới
(homoparental) và con cái không phải là người có quan hệ máu mủ với cha
mẹ (do các cặp vợ chồng đồng tính không thể sinh con từ hành vi tình dục
đồng tính của mình). Và đây là một vấn đề xã hội cần xem xét.
Hệ quả trước hết là những đứa trẻ sống với những bậc
cha mẹ đồng tính sẽ không có sự phát triển bình thường về tâm lý lẫn xu
hướng tình dục của mình như những đứa trẻ sống với cha mẹ là những người
dị tính. Đứa trẻ sống trong gia đình có cha mẹ dị tính sẽ có được hai
hệ quy chiếu để học hỏi cả về tâm lý lẫn thiên hướng tính dục “nam” (từ
người cha) và “nữ” (từ người mẹ). Thế nhưng với những đứa trẻ có cha mẹ
đồng tính thì các em không hề có được sự quy chiếu mang tính quân bình
như thế, bởi chúng đang sống với hai bà mẹ hoặc hai ông bố, và vì vậy,
sự phát triển về tâm lý lẫn nhân cách của các em có nguy cơ bị lệch.
Bên cạnh đó, trong những xã hội mà đa số người
dân chưa muốn nhìn nhận hôn nhân đồng tính, các gia đình kiểu này thường
phải sống trong sự co rút, hoặc bí mật, và do đó, những đứa con của họ
phải đối diện với nhiều trở ngại khi hội nhập vào xã hội. Chẳng hạn,
việc những đứa trẻ đó sẽ phải “thông tin” như thế nào với bạn bè về cha
mẹ của chúng, và nguy cơ các em sẽ gặp phải những chấn thương tâm lý khi
phải đối diện với vô vàn những tình huống kiểu như thế trong quá trình
sống, học tập và giao tiếp xã hội.
Ở Việt Nam chúng ta cho đến nay vẫn chưa có thống kê
hay khảo cứu nào về giới đồng tính cả về mặt y học, văn hóa, kinh tế,
tâm lý xã hội. Thiết nghĩ, việc tỏ thái độ ủng hộ hay phản đối lúc này
đều là vội vàng.
SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN
0 comments:
Post a Comment