Wednesday, October 9, 2013

HÀNH VI VI PHẠM VIỆC CẤP DƯỠNG CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN KHÔNG CẤU THÀNH TỘI PHẠM

TRỊNH TIẾN VIỆT – Khoa luật ĐH quốc gia Hà Nội
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 2/2001 có đăng bài viết của tác giả Vũ Thanh Xuân – Đội thi hành án huyện Thới Bình, Cà Mau về trường hợp cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án về việc cấp dưỡng, nhưng người phải thi hành án về việc cấp dưỡng lại cố tình không chấp hành án, mặc dù đã được cơ quan thi hành án đôn đốc và xử phạt hành chính. Trong trường hợp này, người phải thi hành án có phạm tội không, nếu có thì phạm tội gì?
Tác giả bài viết có đưa ra hai quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án này. Quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của người phải thi hành án đã phạm tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS năm 1999). Quan điểm thứ hai lại khẳng định người này phạm tội không chấp hành án (Điều 304 BLHS năm 1999).

Về trường hợp này, chúng tôi cho rằng người phải thi hành án không phạm tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng và cũng không phạm tội không chấp hành án bởi các lập luận dưới đây.
Trước hết, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, Điều 152 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Theo đó, dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng là: Chủ thể của tội phạm này là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác theo quy định của pháp luật. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể là cha mẹ đối với con nhỏ, con đối với cha mẹ già yếu, giữa vợ và chồng sau khi ly hôn v.v… (Điều 36, 50, 56, 57, 60… Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000) và người đó có khả năng về kinh tế (khả năng thực tế) để thực hiện công việc cấp dưỡng. Về mặt khách quan, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm các dấu hiệu: hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, hậu quả của hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng là nghiêm trọng hoặc không gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Như vậy, một người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 152 BLHS khi có hành vi khách quan thuộc một trong hai trường hợp là: người đó có hành vi cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng (ví dụ: làm cho người được cấp dưỡng suy kiệt, lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe như: ốm đau, bệnh tật…1); hoặc người đó có hành vi cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng mặc dù không gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị cơ quan Nhà nước hoặc cấp có thẩm quyền xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, tức là vẫn tiếp tục cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Đối chiếu các quy định của pháp luật hình sự với trường hợp trên thì người phải thi hành án đã thỏa mãn dấu hiệu về chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 152 BLHS. Tuy nhiên, hành vi của người đó lại không thỏa mãn các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm. Bởi lẽ, hành vi của người phải thi hành án do không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng chưa gây hậu quả nghiêm trọng. Việc cơ quan thi hành án đôn đốc và xử phạt hành chính đối với người phải thi hành án là trường hợp xử phạt hành chính đối với người có hành vi không chấp hành án hoặc không chấp hành các quyết định của cơ quan thi hành án.
Ở đây, bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật và buộc người này phải thi hành việc cấp dưỡng, họ đã không chấp hành nên bị xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành án, chứ không bị xử phạt hành chính về hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Nói cách khác, người phải thi hành án bị cơ quan thi hành án xử phạt hành chính do không chấp hành yêu cầu của cơ quan tố tụng về việc thi hành quyết định của Tòa án. Như vậy, không thể cho rằng người phải thi hành án “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” – hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Yêu cầu của việc “đã xử lý hành chính” trong Điều 152 BLHS là đã bị xử phạt do có hành vi xâm phạm tới khách thể là chế độ hôn nhân và gia đình chứ không phải do có hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp.
Trong trường hợp trên, người phải thi hành án bị cơ quan thi hành án xử phạt hành chính do có hành vi xâm phạm đến khách thể là hoạt động tư pháp mà cụ thể ở đây là hoạt động đúng đắn và uy tín cũng như việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mặt khác, nếu cho rằng người phải thi hành án bị xử phạt hành chính về hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng thì về thẩm quyền xử phạt hành chính trong trường hợp này lại không đúng. Bởi lẽ, theo Nghị định số 87/2001/NĐ – CP ngày 21-11-2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình quy định thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này (cụ thể ở đây là xử phạt hành chính hành vi vi phạm về cấp dưỡng)2 lại thuộc về Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 17), chứ không thuộc về cơ quan thi hành án. Vì vậy, theo chúng tôi trong trường hợp trên người phải thi hành án không thỏa mãn cấu thành tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thứ hai, về tội không chấp hành án, Điều 304 BLHS năm 1999 quy định “Người nào cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Theo đó, dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội không chấp hành án là: Chủ thể của tội phạm này là người có nghĩa vụ phải chấp hành bản ám, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Những người này có thể là đương sự trong vụ án dân sự, người bị kết án trong vụ án hình sự v.v… Người phải thi hành có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng và nghĩa vụ đó được xác lập bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án. Chính vì vậy, việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp về kinh tế không chỉ đơn thuần là thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà còn là nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, có thể khẳng định người phải thi hành án thỏa mãn dấu hiệu về chủ thể của tội không chấp hành án. Còn về mặt khách quan thì tội không chấp hành án thể hiện dưới dạng hành vi không thực hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết. Như vậy, một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án khi người đó có hành vi cố ý không thực hiện bản án, quyết định của Tòa án sau khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết.
Từ những quy định của điều luật trên, biện pháp cưỡng chế cần thiết nên hiểu như thế nào? Cưỡng chế nếu hiểu theo nghĩa rộng là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp mà pháp luật quy định, nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải chịu những hạn chế nhất định về tài sản v.v… Theo quy định của pháp luật có bốn biện pháp cưỡng chế nhà nước – cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự, cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hành chính. Về biện pháp cưỡng chế hành chính thì bao gồm nhiều loại trong đó có biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Vấn đề đặt ra là xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án có được coi là biện pháp cưỡng chế cần thiết trong quy định của Điều 304 hay không? Theo chúng tôi, xét trong phạm vi hẹp mà cụ thể là lĩnh vực thi hành án dân sự thì biện pháp cưỡng chế chính là các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết quy định tại Chương IV Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 17-4-1993 bao gồm: kê biên tài sản, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ, cưỡng chế giao đồ vật, cưỡng chế trả nhà, cưỡng chế chấm dứt hành vi trái pháp luật. Cho nên, chúng ta không thểkhông được coi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế cần thiết. Bởi lẽ, xử phạt vi phạm hành chính không phải là biện pháp cưỡng chế cần thiết mặc dù biện pháp này do cơ quan thi hành án tiến hành. Nếu coi xử phạt hành chính là biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết và trường hợp người có nghĩa vụ thi hành án mà không tự nguyện thi hành bị xử phạt hành chính mức từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng vì có các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 69/CP ngày 16-10-1993 về thủ tục thi hành án dân sự: “a) Cố tình không đến nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án, mặc dù đã được triệu tập đến lần thứ hai; b) Trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án” cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án như người bị xử phạt hành chính trên 50.000 đồng vì có các hành vi quy định tại khoản 2, 3 Điều 21 Nghị định này: “b) Cản trở hoặc có hành vi thô bạo, lăng nhục người thi hành công vụ; c) Cố tình không thực hiện các quyết định khẩn cấp tạm thời hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay; d) Tẩu tán tài sản để tránh việc kê biên, phá hủy niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, hủy hoại tài sản đã kê biên” sẽ không hợp lý vì có trường hợp người phải thi hành án bị xử phạt hành chính khi chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết (bị xử phạt dưới 50.000 đồng) và cũng có trường hợp bị xử phạt hành chính khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết (bị xử phạt từ 50.000 đồng trở lên nếu có hành vi đã dẫn ở trên). Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 47 Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 17-4-1993 về xử lý vi phạm đã quy định “Người nào cố ý không thi hành bản án, quyết định của Tòa án mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết; lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc chấp hành viên thi hành án trái pháp luật; phá hủy niêm phong hoặc có hành vi hủy hoại tài sản đã kê biên trong khi thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Như vậy, mức độ vi phạm của người phải thi hành án được phân ra thành các mức độ khác nhau: nếu nhẹ thì bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc nếu nặng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự chứ không coi dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính làm dấu hiệu định tội hình sự. Đặc biệt, Điều 304 BLHS cũng không quy định là “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm” mà quy định là “đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết mà còn vi phạm”. Do đó, theo chúng tôi không thể coi bị xử phạt hành chính là biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết và như vậy, hành vi của người phải thi hành án không thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan của tội không chấp hành án quy định tại Điều 304 BLHS. Chỉ trong trường hợp người này có hành vi không chấp hành án mặc dù đã bị cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết như: kê biên tài sản, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ v.v… để buộc họ chấp hành án (thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng) mà còn vi phạm (như tẩu tán tài sản, phá hủy niêm phong, có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, hủy hoại tài sản đã kê biên…) thì người đó mới phạm tội không chấp hành án quy định tại Điều 304 BLHS.
Tóm lại, qua những phân tích và lập luận trên, theo quan điểm của chúng tôi hành vi vi phạm việc cấp dưỡng của người phải thi hành án trong trường hợp trên không cấu thành tội phạm. Hay nói cách khác, người phải thi hành án không phạm tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng và cũng không phạm tội không chấp hành án quy định tại các Điều 152 và 304 BLHS năm 1999. Như vậy, việc định tội đòi hỏi phải có sự trùng hợp giữa các tình tiết thực tế của hành vi đã xảy ra với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm tương ứng được nêu ra trong Phần các tội phạm BLHS. Có như vậy mới đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
———————————————–
1 Xem cụ thể hơn: Điểm 8 trong Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT – BTP – TANDTC -VKSNDTC ngày 25-9-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV – “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật hình sự năm 1999.
2 Xem: Điều 12 Nghị định số 87/2001/NĐ – CP ngày 21-11-2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 8/2002

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code