TRẦN VĂN THẮNG - Ths, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Từng là một nước nông nghiệp
nghèo, nhưng sau chưa đầy bốn thập kỷ, đất nước Hàn Quốc đã đạt được
những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “kỳ tích trên sông
Hàn”. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã kéo theo sự
di chuyển liên tục của những người dân từ nông thôn ra thành thị và các
khu công nghiệp; phá vỡ cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống, trong đó có
gia đình.
Từ truyền thống …
Trong xã hội Hàn Quốc truyền thống, một
gia đình điển hình thường bao gồm các thành viên thuộc ba, bốn thế hệ
sống cùng trong một mái nhà; một gia đình lớn đông thành viên thường
được xem như có nhiều phúc lộc.
Do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng, nên gia
đình truyền thống Hàn Quốc theo chế độ gia trưởng. Sau khi người cha qua
đời, người con trai cả sẽ là người điều hành và là trụ cột trong gia
đình; đương nhiên sẽ hưởng kế thừa phần lớn các tài sản có giá trị như
đất đai, nhà cửa… do người cha để lại. Những người con trai thứ cũng
được hưởng thừa kế nhưng chỉ là một phần so với người con trai cả. Với
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Hàn Quốc tin vào cuộc sống ở thế giới
bên kia sau khi chết. Theo quan niệm của người Hàn Quốc, con người sau
khi chết sẽ không đoạn tuyệt, rời bỏ thế giới này mà sẽ đầu thai trở lại
nơi nào đó, sẽ sống cùng con cháu, hậu duệ. Do đó, các thế hệ con cháu,
nhất là những người có nhiều may mắn trong cuộc sống càng cần phải làm
tròn bổn phận với những người đã mất, thực hiện những nghi lễ giỗ tết
hằng năm.
Mục đích lớn nhất, nhiệm vụ quan trọng
của hôn nhân trong gia đình Hàn Quốc là duy trì hậu duệ và thờ cúng tổ
tiên với biểu hiện cụ thể là sinh ra những người con trai để nối dõi,
thừa kế gia sản, chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Chính vì thế mới có chuyện
bao nhiêu thế hệ phụ nữ phải chịu đau khổ vì không thực hiện được
“nghĩa vụ” của mình là sinh được con trai cho nhà chồng. Hôn nhân thường
do cha mẹ hoặc thông qua mối lái sắp đặt. Cô dâu chỉ biết mặt chú rể
vào ngày cưới là chuyện bình thường theo luật tục hôn nhân thời trước.
Hệ thống dòng họ, thân tộc truyền thống
của người Hàn Quốc được xác định chủ yếu trong mối quan hệ thờ cúng tổ
tiên rất phức tạp. Theo đánh giá của các nhà dân tộc học Hàn Quốc, tục
thờ cúng tổ tiên có bốn cấp độ, bắt đầu từ phạm vi hộ gia đình và cao
nhất là phạm vi thị tộc.
Trong xã hội Hàn Quốc truyền thống, một
gia đình điển hình thường bao gồm các thành viên thuộc ba, bốn thế hệ
sống cùng trong một mái nhà; một gia đình lớn đông thành viên thường
được xem như có nhiều phúc lộc.
Hộ gia đình, chỉ bao gồm vợ, chồng và con
cái của họ. Trong trường hợp hộ gia đình đó là của người con trai cả,
thì bao gồm cả cha, mẹ của người con trai cả. Hộ gia đình người con trai
cả được người Hàn Quốc gọi là hộ gia đình lớn, đó là hộ gia đình gốc,
còn những hộ gia đình của những người con trai thứ gọi là gia đình nhỏ,
gia đình nhánh. Thông qua hộ gia đình người con trai cả, sự kế thừa về
quyền lợi và trách nhiệm thờ cúng tổ tiên được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Cấp độ thứ hai trong hệ thống thân tộc
của người Hàn Quốc là nhóm những người để tang nhau, bao gồm tất cả
những con cháu của ông bà tổ tiên tính theo dòng cha trong phạm vi bốn
đời. Vai trò của nhóm những người để tang nhau được thể hiện rõ nhất
trong việc tổ chức và thực hiện những nghi lễ ở “khu vực chôn cất” hoặc ở
các nhà thờ của dòng họ. Người đàn ông đứng đầu của từng nhóm sẽ thay
mặt tất cả các thành viên đọc những lời khấn và thỉnh cầu đối với ông
bà, tổ tiên.
Cấp độ thứ ba trong hệ thống thân tộc của
người Hàn Quốc cũng giống cấp độ thứ hai, những nghi lễ thờ cúng tổ
tiên cũng được con cháu trong cấp độ thứ ba thực hiện nhưng trong phạm
vi năm đời. Chi phí trong việc thờ cúng tổ tiên dòng họ được thực hiện
dựa trên những khoản thu hoạch mùa màng trên mảnh đất chung. Ngoài ra,
những người trong quan hệ thân tộc ở cấp độ thứ ba còn giúp đỡ lẫn nhau
trong trường hợp nghèo khó, túng thiếu và giám sát các thành viên về mặt
đạo đức.
Cấp độ thứ tư trong hệ thống thân tộc của
người Hàn Quốc đó là thị tộc, nó bao trùm tất cả các cấp độ quan hệ họ
hàng, gồm họ của những nhóm người có chung nguồn gốc (những người có
chung dòng họ và nguồn gốc từ thời xa xưa). Lẽ đương nhiên, tính cố kết
của các thành viên ở cấp độ thứ tư không chặt chẽ so với các thành viên
của cấp độ thứ ba. Do những quy định luật lệ cứng nhắc về hôn nhân được
thiết lập theo chế độ hôn nhân ngoại tộc, những người trong một thị tộc
không được phép lấy nhau. Do đó, một chức năng quan trọng của thị tộc
trong hệ thống thân tộc ở cấp độ thứ tư này là xác định rõ các nhóm tộc
người để cho phép họ có thể thiết lập quan hệ hôn nhân với nhau hay
không. Những quy định này mãi tới tận những năm đầu của thế kỷ XX mới
được sửa đổi. Luật Hôn nhân và Gia đình Hàn Quốc chỉ cấm nam, nữ trong
cùng dòng họ lấy nhau trong phạm vi ba đời.
Sự phát triển kinh tế Hàn Quốc do quá
trình công nghiệp hóa đất nước khiến cho đời sống gia đình của người Hàn
Quốc trở nên sôi động, phức tạp hơn. Cơ cấu xã hội truyền thống của
người Hàn Quốc, trong đó có cơ cấu gia đình Hàn Quốc đã có sự thay đổi
và bị phá vỡ. Những đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn tách khỏi đại gia
đình và bắt đầu cuộc sống riêng. Ngày nay, mô hình gia đình hạt nhân với
trung tâm là một cặp vợ chồng đang là phổ biến ở Hàn Quốc.
“Tình yêu In-tơ-nét”, lấy vợ, lấy chồng
qua In-tơ-nét đã được sử dụng nhiều trong xã hội hiện đại. Thay vì phải
ra khỏi nhà tìm kiếm cơ hội gặp gỡ, In-tơ-nét đã có thể giúp cho việc
tìm hiểu, làm quen với nhau, thậm chí sắp xếp, “tác thành” những cuộc
hôn nhân.
… Đến hiện đại
Giai đoạn chuyển đổi từ gia đình truyền
thống sang gia đình hiện đại ở Hàn Quốc được thực hiện trong đầu những
năm 90 của thế kỷ XX. Nguyên nhân sâu xa của sự chuyển đổi này bắt nguồn
từ sự phát triển kinh tế, là quá trình đô thị hóa và theo đó là sự gia
tăng dân cư ở đô thị. Biểu hiện đầu tiên dễ nhận thấy của sự chuyển đổi
từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại đó là: các mối quan hệ
dòng họ phức tạp trong gia đình truyền thống bị suy yếu và bị thay thế
bằng một cấu trúc gia đình giản đơn. Gia đình hiện nay ở Hàn Quốc là gia
đình hạt nhân một thế hệ (gia đình không có con cái hoặc gia đình độc
thân) và gia đình hai thế hệ (bố mẹ và con cái). Đây là mô hình gia đình
chủ yếu hiện nay trong xã hội Hàn Quốc, trong đó vợ chồng là trung tâm
của gia đình. Một biểu hiện khác trong gia đình hiện đại đó là sự đấu
tranh mạnh mẽ cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình cũng như
ngoài xã hội.
Một nét đặc biệt có liên quan đến quan hệ
gia đình ở Hàn Quốc đó là việc kết hôn. Theo các nhà nghiên cứu, phải
đến những năm 80 của thế kỷ XX, những cuộc hôn nhân do nam, nữ tự tìm
hiểu, tự lựa chọn mới bắt đầu gia tăng. Trước đó, các cuộc hôn nhân ở
Hàn Quốc phần lớn là do mai mối. Các quán cà phê ở Xơ-un và các thành
phố khác là nơi hò hẹn, gặp nhau của các chú rể, cô dâu tương lai trong
những ngày nghỉ cuối tuần. Trong giai đoạn chuyển đổi từ xã hội truyền
thống sang hiện đại, nhiều đôi nam nữ thông qua các công ty mai mối đã
trở thành vợ chồng.
Quan niệm hôn nhân cũng có sự thay đổi,
biểu hiện là sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa những người đàn ông trẻ
tuổi với phụ nữ đã có tuổi hoặc giữa những người đàn ông mới lấy vợ lần
đầu với những người phụ nữ đã từng lấy chồng trước đó. Giải thích hiện
tượng này, nhiều nhà nghiên cứu lý giải bởi nguyên nhân kinh tế, do sức
mạnh về kinh tế cũng như địa vị xã hội từ người phụ nữ mà người đàn ông
có được sau khi kết hôn. Những hiện tượng này đã loại bỏ quan niệm cũ
cho rằng người đàn ông phải lấy vợ trẻ tuổi hơn hoặc vợ hai phải là
người lấy chồng lần đầu.
Một nguyên nhân được đưa ra cho sự biến
đổi trong quan hệ hôn nhân ở gia đình Hàn Quốc hiện đại đó chính là tập
tục sinh con trai để nối dõi tông đường. Việc mỗi gia đình Hàn Quốc phải
cố gắng có con trai đã làm mất cân bằng giới tính, số lượng nam giới
nhiều hơn nữ giới, đặc biệt là những người trong độ tuổi kết hôn. Chính
vì lý do này, các cuộc hôn nhân giữa cô dâu đã lấy chồng một lần trước
đó với các chú rể mới lấy vợ lần đầu là điều không tránh khỏi và đang có
xu hướng tiếp tục tăng.
Đặc biệt, với sự phát triển của
In-tơ-nét, quan hệ hôn nhân trong gia đình các nước nói chung và gia
đình hiện đại Hàn Quốc nói riêng đã có sự thay đổi. “Tình yêu
In-tơ-nét”, lấy vợ, lấy chồng qua In-tơ-nét đã được sử dụng nhiều trong
xã hội hiện đại. Thay vì phải ra khỏi nhà tìm kiếm cơ hội gặp gỡ,
In-tơ-nét đã có thể giúp cho việc tìm hiểu, làm quen với nhau, thậm chí
sắp xếp, “tác thành” những cuộc hôn nhân. Ngày nay, những người trẻ tuổi
Hàn Quốc không chỉ sử dụng In-tơ-nét để kinh doanh, học tập, giải trí…
mà còn sử dụng In-tơ-nét trong việc tìm kiếm bạn đời, cho việc hình
thành gia đình.
Tất cả những tác động trên đã làm cho gia
đình Hàn Quốc hiện nay thực sự thay đổi về quy mô và cơ cấu. Hầu hết
các gia đình Hàn Quốc là gia đình hạt nhân, phần còn lại là gia đình mở
rộng. Gia đình ba, bốn thế hệ chiếm tỷ lệ không đáng kể trong xã hội Hàn
Quốc hiện đại. Quá trình công nghiệp hóa đất nước, với việc xây dựng
nhà máy, xí nghiệp ở khắp nơi, đặc biệt là ở các khu đô thị đã làm gia
tăng dòng người di cư từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm công ăn việc
làm. Những người di cư này chủ yếu là thanh niên và trung niên. Như vậy,
gia đình nông thôn bị xé lẻ, những thành viên trẻ ở thành thị sẽ tìm
kiếm việc làm và định cư tại đó, sau khi lấy vợ, lấy chồng sẽ tạo nên
những gia đình hạt nhân. Các cặp vợ chồng ở các khu đô thị thời kỳ công
nghiệp hóa do nhiều nguyên nhânkhác nhau chỉ sinh một hoặc hai con. Do
vậy, số gia đình hạt nhân ở Hàn Quốc gia tăng nhưng quy mô thành viên
trong gia đình hiện đại lại giảm. Hiện nay, quy mô gia đình Hàn Quốc
ngày càng thu nhỏ, 3,2 người/gia đình.
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 18 NĂM 2007



7:16 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment