TRẦN THỊ TÚY – Bộ Tư pháp
Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) quy định thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế
 của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ 
thời điểm mở thừa kế (thời điểm mở thừa kế theo Điều 633 Bộ luật Dân sự 
là thời điểm người có tài sản chết). Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa 
kế quy định tại điều này được coi là khá rõ ràng và phù hợp hơn so với 
quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995.
            Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng quy 
định này cho thấy trong một số trường hợp còn chưa thống nhất về cách 
hiểu. Sau đây là một ví dụ:
            Vợ chồng Ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn 
Thị B có hai người con trai là C và D nhưng đều đã chết khi còn bé, hai 
vợ chồng ông A bà B nhận bà K về làm con nuôi khi bà K mới 5 tuổi (con 
nuôi hợp pháp). Năm 1980 ông A chết không để lại di chúc, tài sản mà vợ 
chồng ông A bà B có được là 200m2 đất (đã được cấp Giấy chứng nhận quyền
 sở hữu ruộng đất đứng tên bà B) và một ngôi nhà cấp 4. Bà K lấy chồng 
nhưng vẫn ở với bà B đến năm 1984 mới về quê chồng. Năm 1991 bà B chết 
không để lại di chúc. Sau khi bà B chết ông H (cháu gọi ông A bằng Bác) 
đến ở và quản lý toàn bộ tài sản của vợ chồng ông A bà B để lại. Năm 
1993 bà K yêu cầu ông H trả lại toàn bộ tài sản do bố, mẹ bà để lại 
nhưng ông H không đồng ý, do ông H chưa có nhà nên bà K đã cho ông H ở 
nhờ thêm một thời gian. Tháng 12 năm 2005, do có nhu cầu sử dụng nhà đất
 nên bà K yêu cầu ông H trả lại nhà do bố, mẹ để lại.
            Xung quanh vấn đề này hiện có hai quan 
điểm khác nhau, quan điểm thứ nhất cho rằng đây là tranh chấp về thừa 
kế, do đó theo quy định về thời hiệu khởi kiện tại Điều 645 BLDS thì bà K
 không còn thời hiệu khởi kiện nữa, mặc dù bà K là con nuôi của vợ chồng
 ông A bà B nhưng kể từ thời điểm bà B chết đến năm 2005 đã hơn 10 năm, 
do đó bà K đã hết quyền yêu cầu đòi tài sản do bố mẹ để lại.
            Quan điểm thứ hai cho rằng đây là đòi lại
 tài sản do bố mẹ để lại mà không phải yêu cầu chia di sản hay xác nhận 
quyền thừa kế. Quan điểm này cho rằng, Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2005 
quy định kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, 
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Quy định này được hiểu là kể từ 
thời điểm người có tài sản chết, các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
 mặc nhiên phát sinh, tức là người thừa kế được quyền hưởng di sản theo 
di chúc hoặc theo pháp luật (Điều 631 BLDS), đồng thời cũng có trách 
nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi di sản do người chết 
để lại (Điều 637 BLDS). Trong trường hợp này, ông A và bà B có hai người
 con nhưng đã chết lúc còn bé, do đó chỉ có bà K là người duy nhất được 
thừa kế theo pháp luật (thuộc hàng thừa kế thứ nhất) đối với di sản do 
ông A bà B để lại, bà K không thuộc trường hợp từ chối nhận di sản theo
 Điều 642 BLDS, cũng không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di 
sản theo Điều 643 BLDS. Do vậy, sau khi bố mẹ chết, bà K mặc nhiên có 
các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản mà bố mẹ bà để lại, việc ông H 
chiếm đoạt và sử dụng tài sản là không đúng với quy định của pháp luật, 
ông H không phải là người thừa kế theo pháp luật, cũng không phải là 
người thừa kế theo di chúc của vợ chồng ông A bà B. Vì vậy, với tư cách 
là người thừa kế duy nhất theo pháp luật, bà K có quyền khởi kiện ra Toà
 án để yêu cầu ông H trả lại tài sản do bố, mẹ Bà để lại.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Trích dẫn từ: 



 10:17 PM
10:17 PM
 Hoàng Phong Nhã
Hoàng Phong Nhã 
 
 Posted in:
 Posted in:  
0 comments:
Post a Comment