NGUYỄN HOÀNG ÁNH
Nếu văn hoá là nền tảng tinh
thần đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, thì văn hoá kinh doanh
(VHKD) chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh doanh
của một quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, muốn
đảm bảo sự phát triển bền vững cho hoạt động kinh doanh của quốc gia,
hơn lúc nào hết, chúng ta cần có sự tìm hiểu và nghiên cứu thấu đáo về
lĩnh vực này, để có thể góp phần định hướng đúng đắn cho kinh tế Việt
Nam trong thời gian tới.
Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã
bắt đầu quan tâm đến vai trò của văn hoá trong kinh doanh. Có nhiều cách
hiểu khác nhau về VHKD, chủ yếu tập trung hai xu hướng: xu hướng thứ
nhất, coi chủ thể của VHKD chính là các doanh nghiệp, do đó VHKD là văn
hoá doanh nghiệp (corporate culture) hay còn gọi là văn hoá tổ chức
(organizational culture). Xu hướng thứ hai, đang ngày càng phổ biến hơn
khi coi kinh doanh là hoạt động có liên quan đến mọi thành viên trong xã
hội, nên VHKD là một phạm trù ở tầm cỡ quốc gia, còn văn hoá doanh
nghiệp chỉ là một thành phần trong VHKD. Qua xem xét, nghiên cứu các
định nghĩa về VHKD của một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, trong
khuôn khổ bài viết này, xin đưa ra định nghĩa: "VHKD là sự thể hiện
phong cách kinh doanh của một dân tộc. Nó bao gồm các nhân tố rút ra từ
văn hoá dân tộc, được các thành viên trong xã hội vận dụng vào hoạt động
kinh doanh của mình và cả những giá trị, triết lý… mà các thành viên
này tạo ra trong quá trình kinh doanh". Định nghĩa này tương đối bao
quát và rõ ràng, theo đó, văn hoá tổ chức hay văn hoá doanh nghiệp sẽ
chỉ được nghiên cứu với tư cách là một thành phần trong VHKD của một
quốc gia.
Nhận diện VHKD cổ truyền Việt Nam
Trong suốt lịch sử phát triển của nước ta, hoạt động
kinh tế phổ biến là sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp. Trong thời kỳ
phong kiến, tư tưởng "trọng nông ức thương" rất phổ biến, chính vì vậy
mà rất ít người giỏi về kinh doanh. Lương Văn Can, một nhà cách mạng,
đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới doanh thương Việt Nam hồi
đầu thế kỷ XX, khi phân tích nguyên nhân không phát triển của thương
mại nói riêng và của kinh tế Việt Nam nói chung, đã đưa ra 10 điểm. Đó
là:
1) Người mình không có thương phẩm, tức là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín;
2) Không có thương hội, tức là không biết liên kết với nhau trong kinh doanh;
3) Không có tín thực, tức là không biết giữ chữ tín;
4) Không có kiên tâm, ít theo đuổi một việc gì đến cùng;
5) Không có nghị lực, dễ làm khó bỏ;
6) Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và nâng cao các nghề khác;
7) Không có thương học, tức là không có kiến thức về kinh doanh;
8) Kém đường giao thiệp, do xã hội Việt Nam luôn đóng
cửa với thế giới bên ngoài nên hễ ra ngoài là dễ bị lạc lõng, không hoà
nhập được;
9) Không biết tiết kiệm, người Việt Nam tuy nghèo nhưng không biết tận dụng những thứ mình có, thường hoang phí;
10) Khinh nội hoá với tâm lý chung là sính hàng
ngoại. Như vậy, trong VHKD cổ truyền của chúng ta, yếu tố tích cực, phù
hợp với kinh doanh có phần ít hơn những yếu tố tiêu cực. Nhận diện chính
xác những yếu tố này sẽ giúp chúng ta lý giải được phần nào những hạn
chế của nền kinh tế Việt Nam trong những giai đoạn tiếp sau.
VHKD Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Dưới thời Pháp thuộc: sự giao lưu với văn hoá Pháp đã
để lại một dấu ấn sâu đậm cho VHKD Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, kinh doanh trở thành một ngành độc lập, không phụ thuộc vào
nông nghiệp. Các ngành sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều
phát triển hơn thời kỳ trước. Sự thành công bước đầu của một số nhà kinh
doanh người Việt, cùng với việc tiếp thu những tư tưởng mới, đã cải
thiện đáng kể hình ảnh doanh nhân và nghề kinh doanh trong con mắt người
Việt. Thời kỳ này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân tộc, giành lại
được độc quyền thương mại từ tay tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng
lòng tự hào được làm nhà kinh doanh. Thương mại và ngoại thương đều phát
triển nhanh chóng. Đặc biệt, theo học giả Đào Duy Anh, ngay từ những
năm 30 của thế kỷ XX, Việt Nam, dưới tên là xứ Đông Pháp, đã đứng thứ
hai thế giới về xuất khẩu gạo, chỉ sau Mianma.
Giai đoạn 1954-1986: trong giai đoạn 1954-1975, Việt
Nam bị phân chia thành hai miền: miền Bắc được giải phóng khỏi ách đô hộ
của thực dân Pháp, tiến lên xây dựng CNXH, còn miền Nam bị chiếm đóng,
thay đổi theo chế độ thực dân mới của Mỹ. Do sự khác biệt này mà VHKD ở
miền Bắc và miền Nam cũng phát triển theo những chiều hướng khác nhau.
VHKD miền Bắc mang đặc tính của VHKD XHCN, coi trọng công bằng xã hội
nhưng không coi trọng hiệu quả, tiêm nhiễm bệnh chủ quan, duy ý chí, cơ
chế quản lý cồng kềnh, mang nặng tính quan liêu, coi rẻ kinh doanh và
thương nhân… ở miền Nam, qua giao lưu với văn hoá Mỹ, VHKD nơi đây tiếp
thu được một số kiến thức, yếu tố cần thiết cho kinh tế thị trường như
cơ sở hạ tầng, công nghệ, kiến thức kinh doanh hiện đại, tác phong làm
việc công nghiệp… nhưng cũng tiêm nhiễm tâm lý vọng ngoại khá nặng nề,
nhất là tôn sùng những gì của Mỹ, cùng một số thói xấu khác như chủ
nghĩa thực dụng, lối sống gấp, thích hưởng thụ, xa rời bản sắc dân tộc…
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, hai miền Nam, Bắc
cùng bước vào con đường xây dựng CNXH, hai nền VHKD dần hoà hợp với
nhau, trở thành một nền VHKD thống nhất trong toàn quốc nhưng vẫn bảo
tồn một số khác biệt giữa hai miền. Nền VHKD này tuy có bổ sung cho VHKD
cổ truyền một số ưu điểm như: coi trọng công bằng xã hội, nâng cao vị
thế cho phụ nữ, có tinh thần vượt khó vươn lên… nhưng lại làm tăng lên
một số yếu tố tiêu cực cho kinh doanh như: tâm lý coi rẻ nghề buôn nói
chung và kinh doanh nói riêng, tính chủ quan duy ý chí, cơ chế tổ chức
quan liêu, thiếu hiệu quả, tính cứng nhắc, kém năng động với thị trường…
Đây là một trở ngại khá nặng nề cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và
các nhà kinh doanh Việt Nam nói riêng khi bước vào cơ chế thị trường.
VHKD Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thời kỳ đổi mới đã mang lại một luồng sinh khí mới
cho hoạt động kinh doanh và đã làm thay đổi cơ bản VHKD Việt Nam. Ảnh
hưởng của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đến VHKD Việt
Nam có thể xem xét theo hai hướng:
Những tác động tích cực
Vai trò của kinh doanh nói chung và doanh nhân nói
riêng đã được cải thiện đáng kể trong con mắt xã hội. Trong cuộc điều
tra xã hội học ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 5.2003, số người được hỏi
đã cho rằng, "Kinh doanh là một nghề có ích cho xã hội" chiếm 94%,
"Người biết làm giàu là người đáng quý trọng" chiếm 74%. Việc nhiều
người có bằng cấp cao, thậm chí từng làm cán bộ quản lý trong cơ quan
nhà nước vẫn chọn nghề kinh doanh, chứng tỏ xã hội đã thừa nhận tầm quan
trọng của nghề này. Đây là một chuyển biến đáng kể so với quan niệm
truyền thống "nhất sĩ, nhì nông" của Việt Nam.
Trình độ chung của doanh nhân cũng được cải thiện
đáng kể. Theo kết quả điều tra của đề tài KX.07.14 thì số giám đốc có
trình độ đại học chiếm 77%. Không chỉ những người có học hành mới bắt
tay vào kinh doanh, mà ngay cả những người đang là doanh nhân cũng mong
muốn được học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Điều này chứng tỏ doanh
nhân hiện nay đã ý thức được tầm quan trọng của kiến thức khi tiến hành
kinh doanh, nhất là trong thời buổi mở cửa và hội nhập.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng được trẻ hoá,
phần lớn đang ở độ tuổi sung sức. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả
Trường Đại học Ngoại thương tiến hành trong hai năm 1999 và 2000, số
người tiến hành đàm phán (bao gồm các giám đốc và trưởng phòng kinh
doanh) ở độ tuổi 40-50 chiếm tới 63,06%; dưới 40 tuổi là 25,23% và chỉ
có 11,71% ở độ tuổi trên 50.
Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân đã
được cải thiện đáng kể. Kết quả nghiên cứu về tinh thần kinh doanh do
Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương phối hợp với tổ chức JICA
(Nhật Bản) tiến hành trong khuôn khổ dự án Ishikawa năm 2000 đã thể hiện
rõ điều này. Khi được hỏi về động cơ kinh doanh, 41,4% số doanh nhân
trả lời là "muốn làm gì có ích cho xã hội"; 27,3% trả lời là do "muốn tự
quyết định công việc của mình"; 13,5% là do "muốn phát huy tối đa khả
năng của mình"; 16,4% do "muốn tiếp tục công việc của gia đình hiện
nay"; 9,7% do "muốn kiếm nhiều tiền hơn"; 5,1% do "công việc trước đây
không thích hợp" và 1,3% do "không có việc làm". Những con số này cho
thấy doanh nhân Việt Nam có trách nhiệm và ý thức xã hội khá cao. Điều
này khẳng định rằng, doanh nghiệp kinh doanh không chỉ vì mục đích cá
nhân, mặc dù động cơ này hoàn toàn là chính đáng.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm
hoạt động kinh doanh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình kinh
doanh mới ra đời như các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, các hình
thức kinh doanh quốc tế. Lợi nhuận thu được từ kinh doanh cũng tăng lên,
góp phần khẳng định và nâng cao vai trò của kinh doanh nói chung và
doanh nhân nói riêng trong xã hội Việt Nam.
Tiến trình hội nhập đã mở cửa cho nền kinh tế Việt
Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế giới, môi trường kinh doanh được mở
rộng, sôi động, đã tạo điều kiện cho các doanh nhân Việt Nam có cơ hội
phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh doanh phù hợp với
yêu cầu của thị trường. Các doanh nhân Việt Nam được tiếp xúc với các
kỹ năng hoàn toàn mới như marketing, xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ… làm phong phú thêm cho kho tàng kiến thức về
kinh doanh của người Việt Nam.
Quá trình cọ xát với thị trường quốc tế đã khơi dậy
lòng tự hào dân tộc của người Việt Nam, giúp các doanh nhân Việt Nam
xích lại gần nhau, khiến họ kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà còn để
tôn vinh Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các công ty của Việt Nam có
thương hiệu nổi tiếng ở nước ngoài như Trung nguyên, Legamex, Vinataba…
đều khẳng định: mục đích bảo vệ thương hiệu của họ không phải chỉ để thu
được lợi nhuận, mà còn để bảo vệ uy tín của dân tộc.
Những tác động tiêu cực
Tác động tiêu cực lớn nhất của cơ chế thị trường đến
VHKD Việt Nam chính là sự chao đảo về các hệ thống giá trị trong mỗi con
người Việt Nam nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Việt Nam vốn là
một nước có nền văn hoá nông nghiệp, trọng tĩnh, với hệ thống các giá
trị thiên về tinh thần hơn là vật chất, như thích hoà hiếu, trọng tình,
ham danh hơn ham lợi, trọng thể diện… Những yếu tố này, một mặt cản trở
sự phát triển kinh tế của đất nước, mặt khác lại giúp cho tôn ti, trật
tự trong xã hội được bảo đảm, các giá trị đạo đức ít bị xáo trộn.
Khi bước vào cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh
được Nhà nước khuyến khích, một số thương nhân giàu lên nhanh chóng.
Ngày càng có nhiều người trẻ tuổi thành công trên thương trường. Thực tế
này đã làm đảo lộn những quan niệm truyền thống, tôn ti, trật tự cũng
không còn được coi trọng như trước vì kinh nghiệm của lớp người đi trước
bị cho là không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Sự khủng hoảng này là
tất yếu khi chúng ta từ mô hình kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, điều đáng nói là, trong
khi những giá trị tinh thần cũ bị chê bỏ, thì chưa có những giá trị tinh
thần mới để lấp vào chỗ trống đó. Vì thế, trong xã hội, điều tốt và
điều xấu nhiều khi lẫn lộn, con người Việt Nam bị chao đảo, thiếu chuẩn
mực để hướng tới. Điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến VHKD Việt Nam. Xuất
phát từ thực tế là nhiều doanh nghiệp thành công không phải bằng con
đường làm ăn chân chính, đã làm một số doanh nhân mất lòng tin, mặt
khác, môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa ổn định, chưa ủng hộ những
doanh nhân làm ăn nghiêm chỉnh. Điều này nảy sinh tư tưởng làm ăn gian
dối, đánh quả, chụp giật… trong các doanh nhân, thậm chí còn có quan
niệm rằng, ở Việt Nam chỉ có làm ăn lắt léo mới có thể trụ được trên
thương trường. Cách nghĩ như vậy, về lâu dài sẽ ảnh hưởng nguy hiểm đến
nền tảng đạo đức xã hội và hình ảnh của đất nước Việt Nam trên trường
quốc tế.
Các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, văn hoá Việt
Nam khá ôn hoà. Chúng ta không quá khắt khe về tôn giáo như người Trung
Đông, không có kỷ luật để khép mình vào tập thể như người Nhật Bản, không quá lệ thuộc vào gia đình, dòng họ như người Italia, không tự hào về chủng tộc như người Hoa… Tính chất này giúp con người Việt Nam có tính khoan dung, mềm dẻo, dễ hoà đồng, nhưng
cũng làm chúng ta dễ chao đảo, không có điểm tựa vững chắc về tinh
thần. Số liệu điều tra cho thấy, phần lớn doanh nhân Việt Nam kinh doanh
không bắt nguồn từ truyền thống gia đình, lại xuất thân từ những gia
đình nghèo, không được đào tạo cơ bản, nên có nhiều hạn chế về kiến thức
và trình độ. Thực tế này cộng với nền tảng tinh thần không ổn định đã
làm nhiều doanh nhân có tham vọng không giới hạn trong việc làm giàu và
tích luỹ tư bản. Những vụ án kinh tế gần đây như Lã Thị Kim Oanh, Nguyễn
Thị Bé Tư, vụ công ty Đông Nam Associates…, đã cho thấy khi quyền lực,
cơ hội được đặt vào tay những con người hạn chế về trình độ và tư cách
đạo đức, thì có thể làm nảy sinh những tham vọng tội lỗi vô hạn đến như
thế nào. Đành rằng, trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích chính, nhưng
việc mưu cầu lợi nhuận đến mức bất chấp đạo lý, luật pháp, quá táo tợn
như vậy quả là một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng VHKD của Việt
Nam.
Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con người Việt
Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi đường
tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Vì vậy, theo nhiều nhà
nghiên cứu nước ngoài, bối cảnh và môi trường kinh tế Việt Nam thuộc
loại "xã hội thiếu chữ tín" (low trust society). Trong bối cảnh kinh tế
thị trường, khi các mối quan hệ được mở rộng, điểm yếu này càng có nguy
cơ bộc lộ rõ ràng, thể hiện ở tầm vĩ mô là việc các chính sách của Chính
phủ thường hay thay đổi, và khi thay đổi lại không cần tính đến quyền
lợi của những người có liên quan. Còn ở tầm vi mô, theo nhiều nhà kinh
doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam không coi trọng chữ tín,
hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực hiện cam kết,
gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Chừng nào
các nhà quản lý và doanh nhân Việt Nam còn chưa nhận ra tầm quan trọng
của chữ tín trong mọi mối quan hệ, thì chúng ta còn khó lấy được niềm
tin của đối tác. Thậm chí, về lâu dài, sẽ có ảnh hưởng xấu đến hình ảnh
của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Một số người Việt Nam không có bản lĩnh "văn hoá"
vững vàng, sa vào trạng thái choáng ngợp trước những thành tựu kinh tế
của phương Tây, trở nên sùng ngoại quá đáng, phủ nhận tất cả những giá
trị cổ truyền của dân tộc. Những người này phần đông là giới thanh niên
làm việc cho các công ty nước ngoài và những người kinh doanh bằng viện
trợ của thân nhân từ nước ngoài gửi về. Việc đánh mất bản sắc văn hoá
dân tộc mình đã làm họ rập theo khuôn mẫu phương Tây trong mọi hành vi.
Thật ra, văn hoá không phải là "đồ ăn nhanh", để có thể học theo trong
một sớm một chiều, mà cần trải qua nhiều thế hệ. Văn hoá cũng giống như
tảng băng trôi, mà một người từ nền văn hoá khác chỉ có thể nhận biết
được phần nổi (phần nhỏ nhất), chứ chưa thể ý thức được phần chìm dưới
nước (phần quyết định), được tích tụ qua nhiều thế hệ và đã ăn sâu vào ý
thức hệ của mỗi thành viên trong nền văn hoá đó. Chính vì vậy, việc bắt
chước thiếu chọn lọc của một nhóm doanh nhân Việt Nam chỉ làm nghèo đi
đời sống tinh thần của họ và làm yếu đi bản sắc dân tộc trong VHKD Việt
Nam. Sự sùng ngoại quá đáng đó còn làm giảm sút uy tín của doanh nhân
Việt Nam trong con mắt của những đối tác nước ngoài, vì họ đã từ bỏ bản
chất thật của mình để trở thành đồ giả trong con mắt người ngoại quốc.
Một số khác, trong đó có cả các nhà quản lý, vẫn giữ
tư tưởng bảo thủ, hoặc vì không có điều kiện, hay vì không muốn thay
đổi, nên đã trở thành lạc hậu với bên ngoài. Thiếu những kiến thức và kỹ
năng cần thiết trong thời kỳ đổi mới, họ dễ bị thua lỗ, bộc lộ nhiều
sai sót trong kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Những người này, đã
góp phần làm VHKD Việt Nam kém năng động, chậm hoà đồng trong tiến
trình hội nhập, ảnh hưởng đến hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc
tế.
Nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam mới chỉ bắt đầu, VHKD Việt Nam đang đứng trước
những thuận lợi cũng như thử thách to lớn trên bước đường phát triển sắp
tới. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những mặt mạnh và yếu
trong VHKD Việt Nam, từ đó phát huy những mặt tích cực và hạn chế những
yếu tố tiêu cực do tác động của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế với văn hoá Việt Nam nói chung và VHKD nói riêng để có thể tích
cực, chủ động trong hội nhập, đảm bảo xây dựng một nền VHKD Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm nền tảng cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI
SOURCE: TẠP CHÍ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC SỐ 550, THÁNG 3 NĂM 2005
0 comments:
Post a Comment