THS. NGUYỄN QUANG LỘC – Thẩm phán – Vụ trưởng Vụ tổng hợp Toà án nhân dân tối cao
Số lượng và chất lượng
giải quyết, xét xử các loại vụ án của ngành Tòa án nhân dân nói chung và
của các cấp Tòa án nói riêng chính là thước đo quan trọng bậc nhất để
xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành và của từng Tòa
án, từng cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm Tòa án.
Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của năm trước,
dự báo tình hình, nhiệm vụ của năm tiếp theo và các điều kiện đảm bảo
thực hiện nhiệm vụ, hàng năm Hội nghị tổng kết và triển khai công tác
của ngành đều bàn bạc và thống nhất đưa ra các chỉ tiêu công tác, trong
đó có chỉ tiêu về công tác xét xử, giải quyết các loại vụ án. Chỉ tiêu
về số lượng và chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án được tính
theo tỷ lệ phần trăm (%) của các vụ án đã giải quyết trên tổng số các vụ
án phải giải quyết. Trên cơ sở các chỉ tiêu công tác do Tòa án nhân dân
tối cao ban hành, các Tòa án đều phải quán triệt, triển khai tổ chức
thực hiện trong toàn đơn vị. Kết quả thực hiện trong từng thời điểm
thống kê, báo cáo được tổng hợp từ Tòa án nhân dân cấp huyện đến Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và thống kê, tổng hợp chung của toàn ngành tại Tòa án
nhân dân tối cao.
Các số liệu thống kê được phân tích, đánh giá để có
thể vẽ ra một bức tranh toàn cảnh về công tác giải quyết, xét xử của
toàn ngành Tòa án nhân dân trong quý, 9 tháng, một năm. Từ những số liệu
này có thể nhận biết được những điểm mạnh, những điểm yếu kém, tồn tại
trong công tác giải quyết, xét xử chung của toàn ngành, hơn thế còn có
thể đánh giá được việc giải quyết, xét xử từng loại vụ án, từng loại
tội, từng loại tranh chấp hay việc dân sự. Trên cơ sở các số liệu đó,
lãnh đạo ngành Tòa án nhân dân, lãnh đạo các Tòa án nhân dân địa phương
có thể rút ra những bài học về chất lượng và quản lý, điều hành hoạt
động xét xử, giải quyết các vụ án. Cũng căn cứ vào các số liệu của ngành
Tòa án nhân dân, của Viện kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân, Bộ Tư
pháp, Nhà nước có thể hoạch định những chính sách, đề ra những chủ
trương thích hợp nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực tư
pháp nói riêng và toàn xã hội nói chung tốt hơn.
Như vậy, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo số liệu
báo cáo, thống kê đầy đủ, trung thực, chính xác và kịp thời. Nhìn chung,
trong những năm gần đây, do có sự quan tâm đúng mức của Lãnh đạo, Thủ
trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân
dân các cấp, đồng thời có sự hỗ trợ tốt của công nghệ thông tin nên các
số liệu thống kê, báo cáo của ngành Tòa án nhân dân đã đầy đủ hơn, chính
xác hơn, kịp thời và đáng tin cậy hơn. Tuy nhiên, việc đánh giá về số
lượng, chất lượng của công tác giải quyết xét xử các loại vụ án cũng còn
có những ý kiến khác nhau, cần phân tích để làm rõ. Chúng tôi xin nêu
một số vấn đề như sau:
1- Về số lượng vụ án, vụ việc (sau đây xin gọi chung là vụ án)
Số lượng các vụ án phải giải quyết (tức là đã thụ lý)
bao gồm cả số vụ án chưa giải quyết của các kỳ thống kê trước và số vụ
án đã thụ lý trong kỳ thống kê (cũ còn lại cộng với mới thụ lý).
Số lượng các vụ án đã giải quyết là số vụ án, vụ việc
các Tòa án đã giải quyết bằng các bản án, quyết định (Quyết định giải
quyết vụ án, vụ việc như Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, công nhận
thỏa thuận của các đương sự, trả hồ sơ vụ án, chuyển hồ sơ vụ án…).
Số lượng các vụ án đã được giải quyết, xét xử trên tổng số các vụ án phải giải quyết sẽ cho kết quả thực hiện chỉ tiêu (%).
Cách tính tỷ lệ giải quyết, xét xử nêu trên đã được
thực hiện trong ngành Tòa án nhân dân nhiều năm qua và cũng phù hợp với
cách tính được quy định trong Thông tư liên tịch số
01/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 01-7-2005 hướng dẫn thi hành
một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê hình sự, thống kê
tội phạm.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện cũng nảy sinh
vướng mắc về số vụ án phải giải quyết còn trong thời hạn luật định,
nhưng Tòa án không thể giải quyết, xét xử trong thời điểm thống kê được
vì mới thụ lý, thế nhưng khi xác định tỷ lệ giải quyết, xét xử thì không
tách (trừ) những vụ án đó ra, vì vậy tỷ lệ giải quyết, xét xử thấp hơn
thực tế đã giải quyết, xét xử.
Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện A, phải giải quyết 150
vụ án các loại, trong số đó có 100 vụ án cũ còn lại, mới thụ lý 50 vụ
án. Đã giải quyết trong thời điểm thống kê, báo cáo 70 vụ án. Nếu tính
theo phương pháp truyền thống thì tỷ lệ giải quyết, xét xử của Tòa án
nhân dân huyện A là: 70 vụ án : 150 vụ án = 46,6%. Nếu không tính
số vụ án mới thụ lý (còn trong thời hạn giải quyết, xét xử) thì tỷ lệ
giải quyết, xét xử của Tòa án nhân dân huyện A là 70 vụ án : 100
vụ án = 70%.
Như vậy, nếu không tính số vụ án mới thụ lý thì tỷ lệ
giải quyết, xét xử cao hơn, tưởng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ tốt
hơn nhưng thực chất số vụ án còn phải giải quyết không phải chỉ là 30 vụ
án (100 vụ án – 70 vụ án) mà là 30 vụ án + 50 vụ án = 80 vụ án. Điều
này sẽ dẫn tới hai bất cập:
Một là: Không nắm chắc được số vụ án còn lại phải
giải quyết nên ảnh hưởng đến việc quản lý, điều hành của lãnh đạo đơn
vị, thậm chí còn tư tưởng chủ quan cho rằng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hai là: Công tác thống kê, báo cáo, đối chiếu số liệu
giữa các cơ quan tư pháp sẽ không thống nhất, số liệu giữa các ngành
không thể nào trùng khớp mỗi khi thực hiện báo cáo trước Quốc hội, Hội
đồng nhân dân, hoặc các cơ quan, tổ chức khác.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng phương pháp tính số liệu
theo cách tính truyền thống mà ngành Tòa án nhân dân và các cơ quan tư
pháp đang thực hiện chính xác hơn, khoa học hơn, đúng với quy định tại
Thông tư liên tịch số 01/2005 về thống kê án hình sự, tội phạm.
2- Về chất lượng vụ án
Chỉ tiêu về số lượng cũng quan trọng, nhưng chỉ tiêu
về chất lượng giải quyết, xét xử càng quan trọng hơn. Đây là vấn đề có
tính thời sự và luôn là trọng tâm phấn đấu của từng cán bộ, Thẩm phán.
Tỷ lệ các vụ án bị sửa, bị hủy được tính trên tổng số vụ án đã giải
quyết chứ không phải là tính trên tổng số các vụ án có kháng cáo, kháng
nghị.
Ví dụ: Tòa án nhân dân tỉnh B đã giải quyết 1000 vụ
án các loại, trong số đó có 200 vụ án có kháng cáo, bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Tòa phúc thẩm đã xét xử, giải quyết 200 vụ án này, kết quả:
giữ nguyên bản án sơ thẩm 150 vụ án; sửa bản án, quyết định sơ thẩm đối
với 40 vụ án; hủy 10 vụ án. Số 800 vụ án không có kháng cáo, kháng nghị
nhưng qua công tác giám đốc thẩm có 10 vụ án bị kháng nghị vì có sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và 10 vụ án này đã bị hủy
theo quyết định giám đốc thẩm.
Như vậy tỷ lệ các vụ án bị sửa của Tòa án nhân dân tỉnh B là:
40 vụ : 1000 vụ án = 4%
Tỷ lệ các vụ án bị hủy của Tòa án nhân dân tỉnh B là:
(10 vụ án theo thủ tục phúc thẩm + 10 vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm) : 1000 vụ án = 2%.
Nếu tính trên tổng số vụ án có kháng cáo, kháng nghị
thì tỷ lệ án bị sửa, bị hủy sẽ rất cao (án sửa 40 vụ án : 200 vụ án =
20% và tỷ lệ vụ án bị hủy là 20 vụ án : 200 vụ án = 10%). Cách tính này
không chính xác khi đánh giá số vụ án bị sửa, bị hủy của Tòa án và dễ
gây ra bức xúc dư luận về chất lượng giải quyết, xét xử của Tòa án.
Ví dụ nêu trên mới chỉ là số liệu "mộc" mà chưa phân
tích, mổ xẻ để tìm ra cái lõi của việc sửa, hủy bản án, quyết định. Thực
tiễn áp dụng pháp luật trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án cho
thấy rất nhiều vụ án tuy bị sửa, bị hủy nhưng Tòa án cấp dưới không có
lỗi, vì việc sửa, hủy đó của Tòa án cấp trên là đúng quy định của pháp
luật. Vì vậy, chúng ta chỉ tính số liệu các vụ án bị sửa, bị hủy do lỗi
chủ quan của Thẩm phán và số liệu đó mới là căn cứ để đánh giá chất
lượng xét xử của từng Thẩm phán, từng Tòa án và toàn ngành Tòa án nhân
dân. Đây là một vấn đề rất quan trọng nên cần được xem xét, đánh giá tỷ
mỉ, thận trọng để xác định chính xác lỗi chủ quan hay lỗi khách quan.
Chúng tôi xin nêu một số căn cứ phân biệt như sau:
A- Đối với các vụ án hình sự
1- Về việc sửa bản án, quyết định
* Hội đồng xét xử có lỗi chủ quan khi bản án, quyết định bị sửa:
- Xác định tội danh không chính xác dẫn tới bị sửa về tội danh và có thể bị sửa về hình phạt chính, hình phạt bổ sung;
- Xác định sai khung hình phạt dẫn tới bị sửa khung hình phạt, sửa hình phạt;
- Quyết định hình phạt không tương xứng với tính
chất, mức độ của hành vi phạm tội (áp dụng hình phạt quá nặng, quá nhẹ,
cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật; áp dụng Điều 47 Bộ
luật hình sự không đúng nên quyết định hình phạt không đúng pháp luật…);
- Xác định mức độ thiệt hại không chính xác nên quyết
định việc bồi thường thiệt hại (trách nhiệm dân sự) không đúng quy định
của Bộ luật dân sự;
- Không quyết định về án phí hoặc tính sai về án phí;
- Không quyết định hoặc quyết định xử lý vật chứng, áp dụng các biện pháp tư pháp không đúng quy định của pháp luật.
* Hội đồng xét xử không có lỗi khi bản án, quyết định bị sửa:
- Trước hoặc trong khi xét xử phúc thẩm, bị cáo (hoặc
gia đình bị cáo) tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra;
- Người bị hại xin giảm nhẹ cho bị cáo, tự nguyện
không nhận bồi thường thiệt hại (rút yêu cầu bồi thường thiệt hại) hoặc
có thỏa thuận khác về mức bồi thường thiệt hại;
- Bị cáo xuất trình thêm các chứng cứ mới để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự;
- Bị cáo thành khẩn khai nhận tội phạm, ăn năn, hối
cải, khai thêm các đồng phạm khác hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có
trách nhiệm phát hiện, điều tra về tội phạm khác.
2- Về việc hủy bản án, quyết định
* Hội đồng xét xử có lỗi chủ quan khi bản án, quyết định bị hủy
- Giải quyết vụ án sai thẩm quyền;
- Xác định thiếu hoặc sai tư cách người tham gia tố tụng;
- Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về các thành viên của Hội đồng xét xử. (Thành phần Hội đồng xét xử bắt
buộc phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là giáo viên, công tác
Đoàn thanh niên, thành phần Hội đồng xét xử phải có 5 người…);
- Vụ án đó có bị cáo bị truy tố ở mức cao nhất của
khung hình phạt là tử hình hoặc bị cáo là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần, thể chất nhưng không có sự tham gia bào chữa
của Luật sư;
- Việc thu thập chứng cứ trong vụ án không đúng quy
định của pháp luật nhưng Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung mà
vẫn đưa vụ án ra xét xử (lấy lời khai của người chưa thành niên nhưng
không có mặt người đại diện hợp pháp của họ; luật sư hoặc người bào chữa
không được tham gia từ giai đoạn điều tra; tài liệu trong hồ sơ bị tẩy
xóa nhưng không có xác nhận của người tham gia tố tụng…);
- Đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện, thực
hiện việc xét xử tại phiên tòa không đầy đủ, không đúng quy định tố
tụng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội nhưng Tòa án cấp
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Ngược lại, Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội nhưng Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án,
tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án;
- Tòa án không tổng hợp hình phạt của nhiều tội,
nhiều bản án, tính sai thời gian chấp hành hình phạt tù, không trừ cho
bị cáo thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam;
- Không quyết định về trách nhiệm dân sự, tách phần dân sự thành một vụ kiện dân sự không đúng quy định của pháp luật;
- Vi phạm các quy định về tố tụng hình sự như không
tuyên quyền kháng cáo hoặc tuyên quyền kháng cáo không đúng quy định của
pháp luật hình sự.
* Hội đồng xét xử không có lỗi khi bản án, quyết định bị hủy.
- Vụ án có kháng cáo, kháng nghị nhưng bị cáo chết trước khi xét xử phúc thẩm;
- Người bị hại khởi tố vụ án nhưng trước khi xét xử phúc thẩm họ rút yêu cầu khởi tố’;
- Do có sự thay đổi của pháp luật;
- Do có sự thay đổi về kết quả giám định năng lực
trách nhiệm hình sự của bị cáo tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi
phạm tội, sự thay đổi kết quả giám định thương tật, sức khỏe làm cho
hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm…
B- Đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động.
1- Về việc sửa bản án, quyết định
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán có lỗi chủ quan khi bản án, quyết định bị sửa:
- áp dụng sai quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự;
- Thu thập chứng cứ, tài liệu ở Tòa án cấp dưới không đầy đủ nhưng Tòa án cấp trên đã bổ sung được nhưng thiếu sót đó;
- Tính sai lãi suất;
- Tính sai án phí;
- Xác định sai quan hệ pháp luật.
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán không có lỗi khi bản án, quyết định bị sửa:
- Có sự thay đổi về quy định của các văn bản pháp
luật, Tòa án cấp trên áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mới để sửa bản
án, quyết định của Tòa án cấp dưới;
- Đương sự thỏa thuận lại về các vấn đề có tranh chấp, Tòa án cấp trên ghi nhận thỏa thuận đó của các đương sự;
- Đương sự xuất trình thêm chứng cứ mới.
2- Về việc hủy bản án, quyết định
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán có lỗi chủ quan khi bản án, quyết định bị hủy:
- Giải quyết vụ việc dân sự sai thẩm quyền;
- Xác định thiếu hoặc sai tư cách người tham gia tố tụng;
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật tố
tụng như xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng không đúng quy
định của pháp luật; không tiến hành hòa giải đối với những vụ án bắt
buộc phải hòa giải; hòa giải với những vụ án không được hòa giải; xác
định sai về vụ án và vụ việc dẫn tới áp dụng sai thủ tục giải quyết; vi
phạm thủ tục thụ lý hoặc ban hành văn bản tố tụng (ví dụ: không giao
quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự, thụ lý đơn khởi kiện không
đúng thẩm quyền như người khởi kiện không có quyền khởi kiện, người đại
diện không có tư cách đại diện…); vi phạm thủ tục tố tụng trong quá
trình xét xử…;
- Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không tuân thủ
đúng quy định của pháp luật tố tụng hoặc thực hiện không đầy đủ mà Tòa
án cấp trên không thể bổ sung được;
- Bỏ lọt tài sản tranh chấp;
- Giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự hoặc giải quyết không đầy đủ các yêu cầu của đương sự;
- Tách hoặc nhập vụ án không đúng quy định của pháp luật.
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán không có lỗi khi bản án, quyết định bị hủy:
- Có sự thay đổi cơ bản trong quy định của một số văn bản quy phạm pháp luật.
- Đương sự xuất trình chứng cứ mới làm thay đổi hoàn toàn bản chất, nội dung của vụ việc;
- Các đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án: (đương sự rút yêu cầu khởi kiện);
- Nguyên đơn, bị đơn là cá nhân chết mà không có
người thừa kế quyền và nghĩa vụ của họ hoặc nguyên đơn, bị đơn là cơ
quan, tổ chức đã giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân,
cơ quan, tổ chức thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng. Tòa án cấp trên hủy
bản án, quyết định và đình chỉ vụ án;
C- Đối với các vụ án hành chính
1- Việc sửa bản án, quyết định
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán có lỗi chủ quan khi bản án, quyết định bị sửa:
- áp dụng sai quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án;
- Thu thập chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ ở Tòa án cấp dưới nhưng Tòa án cấp trên đã bổ sung đầy đủ;
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán không có lỗi khi bản án, quyết định bị sửa:
- Có chứng cứ mới mà Tòa án cấp dưới không thể biết được;
- Có sự thỏa thuận mới của các đương sự về việc bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính.
2- Về việc hủy bản án hoặc quyết định
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán có lỗi chủ quan khi bản án, quyết định bị hủy:
- Giải quyết vụ án sai thẩm quyền;
- Xác định thiếu hoặc sai tư cách người tham gia tố tụng;
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính;
- Việc điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, không đúng quy định.
* Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán không có lỗi khi bản án, quyết định bị sửa:
- Xuất hiện chứng cứ mới làm thay đổi bản chất, nội dung của vụ án;
- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện;
- Đương sự là cá nhân chết mà không có người thừa kế
quyền và nghĩa vụ của họ hoặc đương sự là cơ quan, tổ chức đã giải thể
hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức thừa kế
quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Để xác định được lỗi chủ quan hay khách quan (không
có lỗi) của Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán, phải căn cứ vào bản án,
quyết định của Tòa án cấp trên ở thời điểm thống kê, báo cáo. Trong thực
tiễn giải quyết, xét xử các vụ án cũng không ít trường hợp bản án,
quyết định phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm thiếu căn cứ, không thuyết phục, thậm chí có quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm cũng chưa chính xác. Việc sửa, hủy án của Tòa án cấp trên
với Tòa án cấp dưới nếu đúng pháp luật, có căn cứ xác đáng là những bài
học bổ ích, rất thiết thực cho các Tòa án cấp dưới. Ngược lại nếu không
đúng, không chính xác, không phải là mẫu mực thì tác dụng hướng dẫn
không có, thậm chí còn là tác hại khi các Tòa án cấp dưới "rút kinh
nghiệm" và thực hiện theo "án lệ" Tòa án cấp trên.
Những vấn đề chúng tôi nêu trên có thể không mới,
nhưng theo chúng tôi nó luôn luôn là câu chuyện thời sự hàng ngày của
ngành Tòa án nhân dân vì đó là yêu cầu đánh giá đúng chất lượng xét xử,
từ đó rút ra các bài học, có các giải pháp cụ thể, khả thi nhằm đáp ứng
sự mong mỏi và yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng giải quyết, xét xử
các vụ án của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Trích dẫn từ:



6:38 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment