NGUYỄN AN LƯƠNG – Vụ Chính sách tiền tệ – NHNN
Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con
số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực
và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái
Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của
Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt
9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70%
so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm
trở lại đây. Vậy thì đâu là nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam
tăng cao? Có thể đề cập đến hai nhóm nguyên nhân: các nhân tố tác động
từ kinh tế toàn cầu, và các nhân tố từ nội tại nền kinh tế Việt Nam, cụ
thể như sau:
* Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật
liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006
kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước
“mới nổi” ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng
toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị
quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu
lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008,
đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón,
xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép
tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007
đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục
gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai
dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh
trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh
khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả
những điều trên làm sản lượng lương thực – thực phẩm ngày càng giảm
mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một
sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm
cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút.
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra
nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm
liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu
tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ
chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%-
0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3
lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ
3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua
tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực – thực phẩm
tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn
cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc
khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007.
Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái,
các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để
cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải
đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để
cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa
một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng;
cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng
8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế
giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh
tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế
giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia
lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm
phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố
thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác?
* Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước
bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm
hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép,
phân bón, thuốc trừ sâu – là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính
của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng
từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4
lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá
điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón
tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao:
biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều
quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007,
miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh
trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long
móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn
cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK
ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế
lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh
lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới
tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm
xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng
cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92%
năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18%
của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ
hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI
tăng mạnh.
Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách
tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở
mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ
Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến
khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong
nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân
từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế
tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh
tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới
lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng
lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình,
liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ,
mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập
thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm
lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống
ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là
nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát
trong thời gian qua.
Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam
gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những
cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho
các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn
FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD
của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ
khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị
trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp
nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung
ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và
phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm
phát gia tăng.
* Các giải pháp kiểm soát lạm phát mà NHNN đã thực hiện:
Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống của dân chúng, NHNN đã thực hiện các biện pháp thắt
chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm
xuống, bao gồm: tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với
VND và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi
phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất
cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ
6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên
Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn
tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp
tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân
hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua
ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện
thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ,
sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá
20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư
chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của NHNN.
Việc NHNN liên tục thực hiện các biện pháp thắt chặt
tiền tệ trong thời gian qua, không ít ý kiến cho rằng NHNN đã điều hành
chính sách tiền tệ chưa thật sự linh hoạt, gây nên những “nổi sóng” nhất
định trên thị trường tiền tệ. Có thể đánh giá vấn đề này như sau:
Trước bối cảnh Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên
của WTO nên lần đầu tiên phải đối mặt với tình hình đầu tư gián tiếp
nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, trong khi kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều
nên việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN có phần chưa linh hoạt,
thể hiện việc NHNN “đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp mạnh vào cùng
một thời điểm, nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác, tuy có
góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ,
nhưng cũng gây khó khăn cho NHTM, tạo nên việc chạy đua nâng lãi suất
huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh
hưởng đến tâm lý xã hội” .
Do đó, các giải pháp của NHNN tiếp theo sẽ linh hoạt
hơn trong điều hành chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Chính phủ, nhưng
vẫn là ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an
sinh xã hội.
* Các giải pháp trong thời gian tới:
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện chính sách tiền
tệ một cách chặt chẽ, thận trọng; sử dụng linh hoạt và hiệu quả các
công cụ chính sách tiền tệ: xem xét việc tăng dự trữ bắt buộc; tiếp tục
áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc đã công bố;
kiểm soát tốc độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán một cách
hợp lý, trong đó mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30%; kiểm soát cho vay
bất động sản, kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng.
Thứ hai: Thực hiện hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại để đảm bảo khả năng thanh toán.
Thứ ba: Tiếp tục mua ngoại tệ của các nhà
đầu tư trên cơ sở nguồn cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt một mặt để
bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, mặt khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thứ tư: Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng
tiền Việt Nam với đồng Đô la Mỹ nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung
theo hướng cân đối các mục tiêu xuất nhập khẩu, sản xuất trong nước và
nhập siêu; mở rộng biên độ giao động của tỷ giá lên ±2%.
Thứ năm: Nghiên cứu trình Chính phủ về cơ
chế kiểm soát luồng vốn gián tiếp và vấn đề các nhà đầu tư chiến lược
nước ngoài mua cổ phiếu bằng ngoại tệ; Tiếp tục triển khai Quyết định số
98/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Để án nâng cao tính
chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền
kinh tế; Dự báo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong và
ngoài nước và đề xuất các giải pháp phòng ngừa các rủi ro trong trường
hợp luồng vốn đảo chiều.
Thứ sáu: Xây dựng phương án điều hành chính
sách tiền tệ, tín dụng trong 3 quý cuối năm 2008 để cả năm đạt được mục
tiêu tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán không quá 30%, tránh
những cú sốc trên thị trường tiền tệ; Tiếp tục bổ sung hoàn thiện cơ chế
điều hành dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường
mở và các công cụ khác, kể cả các công cụ trực tiếp để sử dụng trong
trường hợp cần thiết; NHNN phối hợp với các NHTM tổ chức thị trường repo
giữa các NHTM để tổ chức hệ thống thanh toán các giao dịch này và nắm
thông tin để can thiệp thị trường với tư cách là người cho vay cuối
cùng.



3:34 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment