TS. ĐINH DŨNG SỸ – Văn phòng Chính phủ
1. Mục tiêu, cơ chế và mô hình bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, sau sự đổ vỡ
của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân, Nhà nước cũng như ngành ngân hàng đã
nghĩ đến việc thiết lập một mô hình bảo hiểm tiền gửi (BHTG), nhằm bảo
vệ quyền lợi của người gửi tiền và bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân
hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD). Ý tưởng này ban đầu được hình thành
một cách chậm chạp do những hạn chế về mặt nhận thức nói chung cũng như
những khó khăn về mặt tài chính từ phía Nhà nước. Việc nghiên cứu tìm
ra một mô hình BHTG ở Việt nam chỉ thực sự được nghiên cứu một cách ráo
riết từ giữa những năm 90, khi Ngân hàng nhà nước Việt Nam được giao
nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng đề án về BHTG, đặc biệt là từ khi Quốc hội
thông qua hai đạo luật quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng vào tháng 12
năm 1997, đó là Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín
dụng.
Tại Điều 17 Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định
trách nhiệm của các tổ chức tín dụng là phải bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền, thông qua việc tổ chức tín dụng phải tham gia tổ chức bảo toàn
hoặc bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó chúng ta vẫn
còn chưa xác định được một mô hình BHTG phù hợp cho Việt Nam. Nhiều ý
kiến đã được đề xuất, trong đó nổi lên hai quan điểm chính là: thành lập
tổ chức BHTG của Nhà nước; quan điểm khác thì cho rằng nên thông qua
Hiệp hội ngân hàng để thành lập tổ chức bảo toàn tiền gửi theo mô hình
của một số nước phát triển (ví dụ: mô hình tổ chức Bảo toàn tiền gửi của
CHLB Đức). Tuy nhiên, các chuyên gia của Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) thì khuyên rằng Việt Nam nên đi theo mô hình tổ chức BHTG của Nhà
nước.
Sau một thời gian nghiên cứu, mô hình BHTG đã được
hình thành theo Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 (sau đó được
sửa đổi, bổ sung bởi NĐ 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005); đến ngày
9/11/1999 Thủ tướng CP đã ký Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg thành lập tổ
chức BHTG với tên gọi “Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam”.
Theo các văn bản nói trên, cơ chế và mô hình bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam được thể hiện ở một số nét lớn như sau:
Về cơ chế bảo hiểm: đây là vấn đề thể hiện
quan điểm của Nhà nứơc về chính sách bảo hiểm. Và lẽ tất nhiên, các quan
điểm hay chính sách này phụ thuộc và bị chi phối bởi nhiều yếu tố kinh
tế, xã hội, đặc biệt là khả năng của Chính phủ trong việc bảo đảm các
nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho việc thực hiện các mục tiêu
của bảo hiểm tiền gửi. Về cơ chế bảo hiểm thể hiện chủ yếu trên một số
vấn đề lớn, đó là:
- Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi của cá nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Tiền gửi
của các tổ chức khác không được bảo hiểm;
- Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam. Tiền gửi là ngoại tệ thì không được bảo hiểm;
- Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc là các
TCTD và tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động
ngân hàng;
- Cơ chế nộp phí là 0,15%/năm tính trên số dư tiền
gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi;
- Mức bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi
bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền tại một tổ chức tín dụng
tối đa là 50 triệu đồng.
- BHTGVN thực hiện chi trả bảo hiểm khi tổ chức tham
gia bảo hiểm bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt
động và tổ chức đó mất khả năng thanh toán.
Về công cụ thực hiện BHTG: BHTG Việt Nam
được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Với tư cách là một công cụ của Chính phủ thực hiện chính sách, cơ
chế về BHTG – BHTG Việt Nam là một tổ chức tài chính của Nhà nước, có tư
cách pháp nhân, được ngân sách nhà nước cấp vốn điều lệ là 1000 tỷ
đồng, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn các khoản thuế
nhưng phải bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Mục tiêu của BHTG
Việt Nam là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, nhất là
những người gửi tiền nhỏ (cá nhân), bảo đảm sự an toàn của hệ thống
ngân hàng, TCTD.
Chúng tôi cho rằng, ở Việt Nam vào thời điểm cuối
những năm 90 của thế kỷ trước, việc hình thành cơ chế và mô hình tổ chức
BHTG thuộc sở hữu nhà nước như nói trên là phù hợp. Trong điều kiện hệ
thống ngân hàng, tổ chức tín dụng chưa thực sự lớn mạnh và còn nhiều rủi
ro (đặc biệt là hệ thống qũy tiết kiệm); hoạt động bảo hiểm thương mại
trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng gần như còn bỏ ngỏ; vai trò
của hiệp hội ngân hàng chưa thực sự đủ mạnh để đứng ra liên kết các ngân
hàng trong cơ chế tự bảo vệ, thì Nhà nước phải đứng ra xử lý rủi ro
tiền gửi cho người dân thông qua tổ chức BHTG của Nhà nước là một mô
hình hợp lý. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước
đang phát triển ở khu vực Đông Nam á cũng làm như vậy.
2. Những Vấn đề cần quan tâm nghiên cứu khi xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi hiện nay
2.1. Về cơ chế bảo hiểm:
- Thứ nhất, tiền gửi được bảo hiểm. Đối với
việc hình thành một cơ chế bảo hiểm thì một trong những điểm chốt của
vấn đề đó là xác định rõ loại tiền gửi nào được bảo hiểm. Theo chúng
tôi, tiền gửi được bảo hiểm cần phải được xác định và làm rõ ở ba khía
cạnh sau đây:
+ Phải làm rõ khái niệm tiền gửi và tiền gửi được bảo hiểm là gì?
Khái niệm tiền gửi là một khái niệm rất rộng. Trong
hoạt động ngân hàng, khái niệm này được sử dụng để chỉ các khoản tiền
được gửi ở các TCTD dưới nhiều hình thức khác nhau của nhiều chủ thể
khác nhau. Tại Luật các tổ chức tín dụng, Điều 20 khoản 9 có đưa ra định
nghĩa về tiền gửi như sau: “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại
tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi
hoặc không được hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”.
Ngoài định nghĩa tại Luật các TCTD nói trên, tại NĐ số 70/2000/NĐ-CP
của Chính phủ về giữ bí mật thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản
của khách hàng gửi tại các TCTD cũng đưa ra một quy định về tiền gửi
như sau: “Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền Đồng Việt Nam và các loại
ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn (kể cả tiền gửi tiết kiệm và các hình thức tiền
gửi khác”. Như vậy, cả hai định nghĩa trên đây theo chúng tôi đều chưa
thật sự rõ ràng, không nói lên được bản chất thế nào là tiền gửi mà chỉ
là một cách định nghĩa theo phương pháp liệt kê.
Trên cơ sở quy định của NĐ 89 nói trên, Tại Thông tư
hướng dẫn số 03/2000/TT-NHNN5 ngày 16/3/2000, Ngân hàng nhà nước đã cụ
thể hóa khái niệm tiền gửi được bảo hiểm gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn;
- Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân;
- Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu
ghi danh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi phát hành.
Theo hướng dẫn trên đây của NHNN thì tiền gửi tiết
kiệm dưới mọi hình thức, tiền mua chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu ghi
danh đã được xác định rõ là thuộc đối tượng BHTG. Tuy nhiên, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân
vẫn là một khái niệm không định lượng được. Chính vì không định lượng
cụ thể là những loại tiền gửi nào, nên thực tế đã nẩy sinh nhiều phức
tạp, gây lúng túng và xử lý thiếu thống nhất của các TCTD, đặc biệt là
thời kỳ chưa ban hành NĐ 109/2005 về sửa đổi, bổ sung NĐ 89/1999.
Như vậy, vấn đề nói trên, đến nay cũng cần phải được
đặt ra và giải đáp một số câu hỏi như: tiền gửi dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của người gửi tiền (ví dụ như tiền ký quỹ); tiền mua các
chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu vô danh do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành (mà hiện
nay chưa được bảo hiểm) có phải là tiền gửi được bảo hiểm không? hoặc có
nên quan niệm rằng, mọi loại tiền được quan niệm là tiền gửi thì đều
được bảo hiểm không? Tuy nhiên, theo chúng tôi, dù quan niệm như thế nào
thì về mặt kỹ thuật, Luật BHTG cũng rất cần phải quy định rất rõ và cụ
thể những loại tiền gửi nào được BH. Điều đó cũng có nghĩa là những loại
tiền gửi nào không được quy định trong Luật thì không thuộc phạm vi
được BH.
+ Chỉ bảo hiểm tiền gửi của cá nhân và một số tổ chức có tính chất tư nhân như quy định hiện hành hay cần phải mở rộng hơn? Quan
điểm của chúng ta khi xây dựng cơ chế BHTG theo NĐ 89/1999 là chỉ bảo
hiểm cho những người gửi tiền nhỏ, ít có khả năng tự bảo vệ mình trước
những rủi ro có thể xấy ra. Vì vậy, đối tượng được bảo hiểm theo NĐ
89/1999 chỉ là tiền gửi của cá nhân, sau đó NĐ 109/2005 đã quy định rõ
hơn (thực chất là mở rộng hơn) đến các đối tượng: hộ gia đình, tổ hợp
tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh – là những thực thể có cơ
cấu tổ chức (thậm chí là có tư cách pháp nhân như công ty hợp danh),
không phải là một cá nhân nhưng có tính chất tư nhân. Chúng tôi cho
rằng, ở thời điểm hiện nay khi xây dựng Luật BHTG cũng cần đặt ra vấn đề
là: vẫn chỉ bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền nhỏ hay cho tất
cả những người gửi tiền (cả cá nhân và tổ chức)? hoặc nếu vẫn chỉ là
những người gửi tiền nhỏ thì có nên mở rộng phạm vi hơn so với hiện nay
không? Hoặc có thể đưa ra một tiêu chí khác như bảo hiểm cho tiền gửi
của tất cả các cá nhân và tổ chức thuộc sở hữu tư nhân chẳng hạn. Vì
trên thực tế, theo NĐ 109/2005 chúng ta đã bảo hiểm cho tiền gửi của cả
doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, nên có ý kiến cho rằng, như vậy
thì tại sao lại không bảo hiểm cho tiền gửi của công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do một cá nhân là chủ sở hữu?
+ Tiền gửi được bảo hiểm chỉ là Đồng Việt Nam như hiện nay hay có thể mở rộng ra cả tiền gửi ngoại tệ?
Đây cũng là một vấn đế rất đáng được quan tâm? Năm 1999 khi xây dựng NĐ
89/1999 hình thành cơ chế bảo hiểm, đây cũng là một vấn đề được trao
đổi nhiều. Cũng có ý kiến đề nghị không chỉ bảo hiểm cho tiền gửi bằng
Đồng VN mà cả tiền gửi bằng ngoại tệ. Ý kiến này cho rằng, nếu chỉ BH
tiền gửi bằng Đồng VN thì có thể sẽ không khuyến khích người có ngoại tệ
gửi tiền vào ngân hàng, hoặc họ sẽ phải chuyển đổi ngoại tệ thành tiền
Việt Nam sẽ mất thêm chênh lệch tỷ giá và phí chuyển đổi. Ngược lại,
nhiều ý kiến cho rằng, việc bảo hiểm cả tiền gửi là ngoại tệ có thể sẽ
dẫn đến khuyến khích việc sử dụng ngoại tệ, ảnh hưởng đến giá trị đồng
nội tệ cũng như quản lý nhà nước về ngoại hối, mặt khác, khả năng tài
chính của chính phủ là có hạn, không có khả năng bảo hiểm hết cho tất cả
các khoản tiền gửi. Do vậy, NĐ 89/1999 chỉ dừng lại ở việc bảo hiểm
tiền gửi là Đồng VN, và theo chúng tôi, quy định ở thời điểm đó là hợp
lý. Tuy nhiên, đến thời điểm này cũng có thể đặt vấn đề là có thể mở
rộng sang đối tượng là ngoại tệ? BHTG đối với cả ngoại tệ có thể sẽ tạo
cơ hội cho các ngân hàng, TCTD thu hút được nguồn ngoại tệ lớn từ trong
nhân dân, khuyến khích lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về Việt Nam cho
đầu tư, phát triển đất nước. Đây cũng là một vấn đề đáng được quan tâm
và cần có câu trả lời từ các nhà hoạch định chính sách.
- Thứ hai, tổ chức tham gia BHTG. Theo cơ
chế hiện hành, các tổ chức phải tham gia BHTG bắt buộc là các TCTD và
các tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân
hàng có nhận tiền gửi của các cá nhân và tổ chức. Về vấn đề này cần
phải làm rõ hai khía cạnh: thứ nhất, xác định rõ tiêu chí các tổ chức
nào phải tham gia BHTG? nên chăng có thể xác định theo nguyên tắc: mọi
TCTD và các định chế tài chính khác (như các công ty tài chính, các công
ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán) hoặc bất kỳ một tổ chức nào có
huy động tiền gửi, hoặc có những khoản tiến mà ở một thời điểm nào đó
được coi là tiền gửi (cần phải được bảo đảm an toàn cho người gửi tiền)
đều phải tham gia BHTG bắt buộc. Nguyên tắc này cũng được tìm thấy ở cơ
chế BHTG của nhiều nước trên thế giới. Và vấn đề ở đây là cần có một
quan niệm (một định nghĩa) chuẩn về tiền gửi như đã nói ở điểm thứ nhất
trên đây. Một khía cạnh khác cũng nên được đặt ra là có phải chỉ bao gồm
những tổ chức tham gia BHTG bắt buộc không? có thể có những tổ chức bắt
buộc phải tham gia BHTG như các TCTD, cũng có thể có những định chế tài
chính khác hoặc bất kỳ một tổ chức nào (được phép) có nhận tiền gửi của
dân cư thì có thể tham gia BHTG một cách tự nguyện không (theo đúng bản
chất của quan hệ bảo hiểm)? Thậm chí, trong cùng một tổ chức nhận tiền
gửi có thể có những khoản tiền gửi được bảo hiểm, có những khoản tiền
gửi không được bảo hiểm, những khoản tiền gửi không được bảo hiểm thì
người gửi tiền nhận được lãi suất cao hơn, TCTD thì không phải nộp phí
bảo hiểm, còn những khoản tiền gửi được bảo hiểm thì người gửi tiền sẽ
được trả lãi suất thấp hơn v.v…
- Thứ ba, về mức phí bảo hiểm. Theo cơ chế
hiện nay, mức phí bảo hiểm được quy định theo một tỷ lệ chung, áp dụng
cho mọi tổ chức tham gia BHTG. Cơ chế này phù hợp với thời gian vừa qua
khi lần đầu tiên Chính phủ thành lập một tổ chức BHTG của Chính phủ để
thực hiện bảo hiểm một cách công khai cho dân chúng. Mặt khác, hệ thống
các ngân hàng, TCTD cũng chưa có những phát triển ổn định, cơ quan quản
lý nhà nước cũng chưa có những đánh giá, phân loại, định mức tín nhiệm
chuẩn đối với chúng, các tổ chức hoạt động độc lập trong lĩnh vực định
mức tín nhiệm cũng chưa được hình thành, do vậy, chưa thể áp dụng cơ chế
thu phí theo uy tín, mức độ rủi ro của từng TCTD. Tuy nhiên, đến thời
điểm hiện nay, việc áp dụng cơ chế tính phí cố định giống nhau cần phải
có sự đánh giá lại, vì không khuyến khích các TCTD phấn đấu giảm thiểu
rủi ro và được hưởng lợi từ việc giảm thiểu rủi ro đó thông qua việc
tham gia và trả phí BHTG. BHTG ở các nước tiến tiến hiện nay xây dựng
theo mô hình giảm thiểu rủi ro thường áp dụng cơ chế tính phí theo định
mức tín nhiệm. TCTD nào có uy tín cao, ít rủi ro hơn thì TCTD đó phải
trả phí BHTG ít hơn và ngược lại. Chúng tôi nghĩ rằng việc xác định mức
phí phải trả khác nhau đối với các TCTD theo cơ chế giảm thiểu rủi ro là
một mô hình rất tiên tiến, mang lại lợi ích thiết thực và tạo động lực
cho các tổ chức tham gia BHTG phấn đấu giảm thiểu rủi ro nên cần được
nghiên cứu và áp dụng. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả cơ chế này đòi
hỏi phải có một số cơ chế đồng bộ đi theo nó, đó là năng lực quản lý,
đánh giá rủi ro từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ – tín
dụng, từ phía BHTG Việt Nam cũng phải được nâng lên, đồng thời cũng cần
phải có sự hỗ trợ tích cực của các công ty định mức tín nhiệm hoạt động
độc lập tham gia vào quá trình này.
- Thư tư, về Mức tiền chi trả bảo hiểm. Cần
phải nghiên cứu xác định lại mức tiền chi trả bảo hiểm. Ở thời điểm hiện
nay có thể nâng mức chi trả bảo hiểm lên cao hơn mức 50 triệu đồng như
quy định hiện hành hay không? Thậm chí cũng có thể trao đổi về phương án
chi trả toàn bộ. Hoặc cũng có thể cân nhắc về một cơ chế xác định mức
trả bảo hiểm theo nguyên tăc kết hợp giữa việc quy định mức tiền tối đa
với việc chi trả theo tỷ lệ phần trăm (%). Ví dụ: số tiền BH được trả
cho tất cả các khoản tiền gửi của một người gửi tiền tại một tổ chức
tham gia BHTG tối đa là 50 triệu đồng, số tiền gửi trên 50 triệu đồng sẽ
được trả theo một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó. Đây có thể là một
phương án khả thi cho Việt Nam hiện nay, vừa phù hợp với khả năng tài
chính có hạn của Chính phủ, vẫn bảo đảm được nguyên tắc bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền nhỏ kết hợp với nguyên tắc của hoạt động bảo hiểm
nói chung, đồng thời kích thích tăng trưởng huy động tiền gửi.
- Thứ năm, về trường hợp chi trả bảo hiểm.
Đây là vấn đề mà các quy định của NĐ 89/1999 và NĐ 109/2005 cũng đã khá
rõ ràng về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trong thực tiễn chi trả bảo hiểm gần
như đã chấp nhận việc chi trả bảo hiểm được thực hiện trong hai tình
huống: hoặc là theo quy định của pháp luật về phá sản hoặc là theo quyết
định của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó cũng gần như được
hiểu rằng, việc chi trả bảo hiểm sẽ được thực hiện cả trong trường hợp
tổ chức tham gia BHTG bị phá sản (theo quy định của pháp luật phá sản),
cả trong trường hợp giải thể theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền
(nhưng xét về bản chất vẫn là phá sản). Chúng tôi cho rằng, với đặc điểm
của hệ thống ngân hàng, TCTD cũng như thực tiễn quản lý nhà nước về
lĩnh vực này ở Việt Nam trong thời gian qua (cả ở khía cạnh giá trị pháp
lý của văn bản về BHTG còn thấp, chỉ ở tầm nghị định), thực tiễn đó có
thể chấp nhận được. Nhưng, đến thời điểm hiện nay, khi chúng ta đã cơ
bản trở thành một nước có nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt văn bản pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
tới đây lại ở tầm Luật thì cần phải xác định rõ ràng một nguyên tắc là
BHTG Việt Nam chỉ thực hiện chi trả bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG
bị phá sản (và phải tuân theo các quy định của pháp luật về phá sản),
các trường hợp giải thể không làm phát sinh trách nhiệm chi trả bảo hiểm
của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
2.2. Về công cụ thực hiện BHTG
- Mô hình tổ chức, địa vị pháp lý của tổ chức BHTG.
Tổ chức BHTG ở Việt Nam hiện nay có tên gọi là “Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam” – là một tổ chức tài chính của Nhà nước, có tư
cách pháp nhân, được Ngân sách nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn các khoản thuế nhưng phải bảo đảm an
toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Việc xác định mô hình tổ chức BHTG VN
trong giai đoạn tới cần tính tới các mô hình hiện đại theo kinh nghiệm
của các nước trên thế giới, đồng thời cũng phải phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam. Theo chúng tôi, việc xây dựng mô hình tổ chức BHTG ở VN
trong thời gian tới nên tính đến một số định hướng như sau:
+ Về tên gọi và mô hình tổ chức, quản trị. Có thể
hình thành một tổ chức có tên gọi là “Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam” hoạt động theo mô hình giảm thiểu rủi ro – một mô hình tiên
tiến và cũng rất phổ biến trên thế giới hiện nay. Tổng công ty BHTG VN
được tổ chức, quản trị và điều hành theo mô hình tổng công ty, có Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành (Tổng giám đốc và các Phó
Tổng giám đốc) và bộ máy giúp việc.
+ Về địa vị pháp lý. Tổ chức BHTG có địa vị pháp lý
độc lập và hoạt động theo Luật; có tư cách pháp nhân, được Nhà nước cấp
vốn điều lệ; hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn các khoản
thuế nhưng phải bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí (nếu có tích
luỹ thì bổ sung vào vốn hoạt động, thậm chí có thể nộp thuế đối với các
khoản thu nhập có được từ các hoạt động đầu tư). Tất nhiên, chúng tôi
quan niệm rằng, dù tên gọi của tổ chức này là gì thì địa vị pháp lý của
tổ chức BHTG ở Việt Nam trong tương lai vẫn luôn là một định chế tài
chính của Nhà nước, một công cụ của Chính phủ, có chức năng là bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của hệ thống ngân hàng,
TCTD;
+ Xây dựng mô hình tổ chức BHTG VN hoạt động theo
hướng giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách của Chính phủ, trong điều kiện
khả năng ngân sách là có hạn;
+ Xác lập cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm bằng chủ yếu
từ nguồn phí của những người hưởng lợi. Tức là những người gửi tiền và
các TCTD là những người hưởng lợi từ BHTG phải là những người đóng góp
chính cho việc hình thành nguồn quỹ BHTG để phục vụ cho chính lợi ích
của họ;
+ Tăng tính tự chủ cho tổ chức BHTG thông qua việc tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư có liên quan đến nghiệp vụ BHTG.
- Về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG
Với địa vị pháp lý nói trên, tổ chức BHTG có chức
năng là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của hệ
thống ngân hàng, TCTD. Theo đó, tổ chức BHTG thực hiện các nhiệm vụ
sau:
1. Giám sát, quản lý rủi ro;
2. Kiểm tra, đánh gía, xếp loại các tổ chức tham gia BHTG;
3. Can thiệp, hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi cần thiết;
4. Tiếp nhận, xử lý các tổ chức tham gia BHTG bị phá sản;
5. Thực hiện chi trả bảo hiểm;
6. Huy động vốn;
7. Hoạt động đầu tư và quản lý nguồn vốn.
Trong các nhiệm vụ nói trên, có những nhiệm vụ để tổ
chức BHTG thực hiện chức năng chính của mình, tức là các nhiệm vụ liên
quan trực tiếp đến chức năng BHTG. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng
BHTG với ý tưởng xây dựng một tổ chức BHTG tiên tiến, hoạt động theo mô
hình giảm thiểu rủi ro thì cần phải đặc biệt quan tâm đến các nhiệm vụ
như: giám sát, quản lý rủi ro; kiểm tra, đánh giá, xếp loại các tổ chức
tham gia BHTG. Hoặc cũng cần phải đặc biệt chú ý tới các nhiệm vụ liên
quan đến hoạt động huy động vốn và các hoạt động đầu tư, nhằm xây dựng
tổ chức BHTG thành một định chế tài chính mạnh theo nguyên tắc tự cân
đối tài chính cho hoạt động của mình, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước. Chính phủ chỉ can thiệp vào hoạt động BHTG
khi có những đổ vỡ lớn, liên quan đến an toàn của cả hệ thống tài chính –
tín dụng và đe doạ đến sự an toàn của nền kinh tế.
SOURCE:



3:31 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment