TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN – KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ – ĐHL HÀ NỘI
Với bề dày lịch sử hình thành và phát triển của mình,
luật so sánh có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình phát triển của
các hệ thống pháp luật trên thế giới. Ở Việt Nam, luật so sánh cũng đóng
vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng pháp luật nói chung và pháp
luật ngân hàng nói riêng. Bài viết này xin đề cập những ứng dụng chủ
yếu của luật so sánh trong quá trình xây dựng pháp luật ngân hàng ở Việt
Nam – lĩnh vực pháp luật được xem là chịu nhiều ảnh hưởng nhất của xu
hướng tự do hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.
1. Vai trò của luật so sánh đối với quá trình xây dựng pháp luật ngân hàng ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, vai trò của luật so sánh trong lĩnh
vực lập pháp nói chung và trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ngân hàng
nói riêng được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, luật so sánh cho thấy sự tương
đồng và khác biệt giữa pháp luật ngân hàng Việt Nam với pháp luật ngân
hàng của các quốc gia khác trên thế giới và pháp luật ngân hàng quốc tế.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường, trước sức ép của việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp lí cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, các nhà
soạn luật Việt Nam buộc phải tiếp cận nhiều hơn với pháp luật nước ngoài
(đặc biệt là pháp luật của các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển) và bước đầu sử dụng những kĩ năng mới mẻ của luật so sánh để tìm
ra con đường phát triển thích hợp cho nền pháp chế Việt Nam. Với các lợi
thế sẵn có của mình, luật so sánh không chỉ là phương tiện hữu ích để
các học giả nghiên cứu pháp luật nước ngoài, mà còn là cẩm nang hữu dụng
của các nhà soạn luật trong việc xây dựng pháp luật nói chung và pháp
luật ngân hàng nói riêng.
Thứ hai, luật so sánh cho ta thấy những
nguyên nhân và cơ sở dẫn đến sự tương đồng hay khác biệt giữa pháp luật
ngân hàng Việt Nam so với pháp luật ngân hàng của các quốc gia khác trên
thế giới. Đây có lẽ là vai trò quan trọng nhất của luật so sánh trong
“địa hạt” xã hội học pháp luật vì thông qua việc nghiên cứu các căn
nguyên dẫn đến sự tương đồng hay khác biệt giữa các trường phái pháp
luật, chúng ta mới có dịp tìm hiểu sâu hơn về lịch sử văn minh nhân
loại, về sự đa dạng hoá của các nền kinh tế, các thể chế chính trị và
các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, với tính cách là những yếu tố
chủ yếu tạo nên sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật quốc gia cũng
như giữa các dòng họ pháp luật đương đại. Việc thừa nhận sự tồn tại
khách quan của các dòng họ pháp luật, các hệ thống pháp luật quốc gia
với những nét đặc thù riêng cho thấy rằng việc nhập khẩu một cách nguyên
xi, máy móc các quy định pháp luật của nước khác vào hoàn cảnh của nước
mình là điều nên cân nhắc và cần được nghiên cứu kĩ trước khi thực
hiện.
Dựa trên việc đánh giá những nguyên nhân và cơ sở dẫn
đến sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật ngân hàng của các quốc
gia, có lẽ nội dung quan trọng nhất của việc ứng dụng luật so sánh trong
lĩnh vực xây dựng pháp luật ngân hàng chính là tìm kiếm những quy định
hợp lí trong pháp luật ngân hàng của các nước cũng như pháp luật ngân
hàng quốc tế, từ đó xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng Việt Nam
theo hướng tiệm cận với chuẩn mực tiên tiến của pháp luật ngân hàng ở
các nước phát triển, phù hợp với thông lệ quốc tế về hoạt động ngân
hàng.
Thứ ba, luật so sánh trang bị cho những
người soạn luật cách tư duy mới về một nền pháp chế hiện đại và cả kĩ
thuật lập pháp tiên tiến. Tư duy và kĩ thuật này cần được ứng dụng trong
lĩnh vực xây dựng pháp luật ngân hàng ở nước ta mà kết quả phải là sự
tiếp nhận có chọn lọc các quy tắc pháp lí tiến bộ của pháp luật nước
ngoài. Chẳng hạn, quy định về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của
ngân hàng trung ương, về các loại hình tổ chức tín dụng và cơ chế hoạt
động kinh doanh của chúng trong nền kinh tế thị trường. Thực tế cho
thấy, hầu hết các quy định cơ bản của pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện
nay có nguồn gốc từ pháp luật ngân hàng ở một số nước theo truyền thống
án lệ cũng như một số nước theo truyền thống luật thành văn trong đó có
Trung Quốc.
Thứ tư, vai trò của luật so sánh đối với quá
trình lập pháp ngân hàng còn được thể hiện ở chỗ nó giúp cho các luật
gia trong nước làm cho pháp luật của nước mình tương thích với pháp luật
quốc tế. Kĩ thuật so sánh luật được các nhà soạn thảo pháp luật sử dụng
như một phương tiện trong quá trình xây dựng pháp luật quốc gia, nhằm
đáp ứng nhu cầu hài hoà và thống nhất hoá pháp luật quốc gia với pháp
luật quốc tế. Trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và chính thức tham gia vào sân
chơi toàn cầu, việc tìm hiểu pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế
cũng như nắm vững các tập quán, thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân
hàng để hành xử hợp lí là yêu cầu bức thiết. Nhu cầu này dường như chỉ
có thể đáp ứng tốt nhất thông qua con đường ứng dụng luật so sánh.
2. Những yêu cầu cơ bản đặt ra trong quá trình sử dụng luật so sánh vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng
Hiển nhiên, muốn ứng dụng luật so sánh vào việc xây
dựng pháp luật nói chung và pháp luật ngân hàng nói riêng thì trước hết
cần xác định những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với hoạt động này. Từ đó,
người soạn luật sẽ tìm ra được mô hình lí tưởng, thích hợp cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng theo hướng đảm bảo sự hài hòa,
thống nhất và tương thích với pháp luật ngân hàng của các nước và pháp
luật ngân hàng quốc tế.
Thực tiễn hoạt động xây dựng pháp luật ngân hàng cho
thấy để có được sự thành công trong quá trình sử dụng luật so sánh vào
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng, người soạn luật cần lưu
ý các yêu cầu cơ bản sau đây:
Một là, cần so sánh các quy định pháp lí về
ngân hàng trung ương trong pháp luật ngân hàng của các nước, trong đó
chú trọng đến nhóm nước phát triển và nhóm nước có hoàn cảnh, điều kiện
tương đồng với Việt Nam. Những quy định này thường được thể hiện trong
một đạo luật riêng về ngân hàng trung ương của các quốc gia, với nội
dung quy định về mô hình tổ chức, cách thức quản lí và điều hành cũng
như cơ chế hoạt động của ngân hàng trung ương. Việc so sánh các quy định
này không ngoài mục đích tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt về
địa vị pháp lí của ngân hàng trung ương trong các hệ thống pháp luật
trên thế giới, lí giải căn nguyên của sự tương đồng và khác biệt đó cũng
như làm rõ ưu điểm và nhược điểm của mỗi mô hình ngân hàng trung ương
trên thế giới. Công việc này sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc ứng dụng
luật so sánh trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngân hàng ở
Việt Nam, đặc biệt là trong việc thiết kế địa vị pháp lí của ngân hàng
trung ương sao cho phù hợp với hoàn cảnh của một nước đang trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường.
Thứ hai, so sánh các quy định pháp lí về tổ
chức tín dụng (các định chế tài chính trung gian) trong pháp luật ngân
hàng của các nước. Đây là một nội dung cơ bản trong cấu trúc luật ngân
hàng ở bất kì quốc gia nào trên thế giới, bởi lẽ hoạt động ngân hàng
luôn được xem là vấn đề trọng tâm trong phạm vi điều chỉnh của luật ngân
hàng. Tuỳ thuộc vào mục tiêu ứng dụng của luật so sánh, việc so sánh
pháp luật ngân hàng có thể tập trung vào các vấn đề cơ bản như: Xác định
giới hạn và cách thức can thiệp của nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường; các loại hình tổ chức tín dụng và những hình thức hoạt động kinh
doanh chủ yếu của nó; cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong
quan hệ nhận tiền gửi và cơ chế bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
trong quan hệ cấp tín dụng với khách hàng vay… Việc so sánh pháp luật
cần đảm bảo tính toàn diện (so sánh giữa các hệ thống pháp luật điển
hình trên thế giới) nhằm có được những kết luận khách quan về bản chất
của các mô hình pháp luật đồng thời phải lưu ý đến tính đặc thù của pháp
luật ngân hàng ở các nước đang phát triển và nhóm nước có điều kiện,
hoàn cảnh kinh tế – chính trị – xã hội tương đồng với Việt Nam.
3. Các ứng dụng chủ yếu của luật so sánh trong quá trình xây dựng pháp luật ngân hàng ở Việt Nam
Trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, pháp luật
ngân hàng Việt Nam đã có những bước tiến dài rất đáng kể. Bằng chứng cho
nhận định này là sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng và gần đây là
hai đạo luật về ngân hàng. Dù không được chính thức tuyên bố nhưng không
thể phủ nhận vai trò của luật so sánh đối với tiến trình xây dựng pháp
luật ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua.
Thật vậy, trước năm 1990, về cơ bản hệ thống ngân
hàng Việt Nam tồn tại theo mô hình một cấp, gắn với những đặc trưng của
nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo mô hình này, Ngân hàng nhà nước Việt Nam
là pháp nhân duy nhất hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, vừa với tư
cách là cơ quan quản lí nhà nước về ngân hàng, vừa tiến hành các hoạt
động của ngân hàng trung ương trên lãnh thổ Việt Nam đồng thời cũng kiêm
luôn chức năng của một ngân hàng thương mại, tức là huy động vốn và cho
vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể. Mô
hình này không có sự tách bạch rõ ràng giữa chức năng quản lí nhà nước
về ngân hàng của ngân hàng nhà nước với chức năng kinh doanh ngân hàng
của ngân hàng thương mại. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn này không hoạt động theo đúng nghĩa của một ngân hàng trung ương,
cũng không thực sự là một ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh
ngân hàng chuyên nghiệp.
Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam chính thức được chuyển
đổi theo hướng thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, việc tìm hiểu,
học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài trong nhiều lĩnh
vực nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng đã dẫn tới hệ quả
là sự ra đời của hai pháp lệnh về ngân hàng (bao gồm Pháp lệnh ngân hàng
nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ti tài
chính). Đây chính là kết quả ban đầu của việc ứng dụng luật so sánh
trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ngân hàng ở Việt Nam. Với cơ sở pháp
lí đầu tiên là hai pháp lệnh về ngân hàng và gần đây nhất là hai đạo
luật ngân hàng, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã có những thay đổi rất
cơ bản về tổ chức và hoạt động, so với giai đoạn trước đó. Dựa trên nền
tảng pháp lí trực tiếp là các văn bản quy phạm pháp luật này, hệ thống
ngân hàng hai cấp ở Việt Nam đã chính thức được hình thành, bao gồm hai
bộ phận là ngân hàng trung ương và ngân hàng trung gian, với sự phân
tách rạch ròi giữa chức năng “ngân hàng trung ương” của ngân hàng Nhà
nước Việt Nam với chức năng “kinh doanh ngân hàng” của các ngân hàng
trung gian. Trên thực tế, hệ thống này được thiết lập dựa vào việc tiếp
thu kinh nghiệm điều chỉnh của pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực ngân
hàng. Trong quá trình soạn thảo các pháp lệnh và các đạo luật về ngân
hàng, nhiều tài liệu pháp luật nước ngoài đã được thu thập và dịch sang
tiếng Việt để thuận tiện cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh và đối
chiếu, với mục tiêu học hỏi và vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh của
Việt Nam.
Dựa vào các kết quả so sánh luật, nhiều quy định của
pháp luật nước ngoài đã được du nhập vào Việt Nam và được thể hiện rõ
nét trong hai pháp lệnh về ngân hàng ban hành năm 1990, đặc biệt là hai
đạo luật về ngân hàng ban hành năm 1997 (bao gồm Luật ngân hàng nhà nước
và Luật các tổ chức tín dụng). Đánh giá khái quát, có thể hình dung
việc ứng dụng luật so sánh trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp
luật ngân hàng ở Việt Nam được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau
đây:
- Về địa vị pháp lí của ngân hàng trung ương
Trên thế giới, ngoài một số nước quy định ngân hàng
trung ương là cơ quan độc lập với chính phủ và chỉ trực thuộc quốc hội
như Hoa Kì, Đức, Hungary, Úc… thì các đạo luật về ngân hàng trung ương
của một số nước khác như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Uzbekistan…()
lại quy định ngân hàng trung ương là cơ quan của chính phủ và thuộc sở
hữu của nhà nước. Chẳng hạn, Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc quy
định: “Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là ngân hàng trung ương của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Dưới sự lãnh đạo của Quốc vụ viện,
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc thiết lập và thực thi chính sách
tiền tệ, thực hiện thanh tra và kiểm soát toàn bộ hoạt động ngân hàng” (Điều 2); “Toàn bộ vốn của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc do nhà nước cấp và thuộc sở hữu của nhà nước” (Điều
18). Ngoài ra, những quy định tại các điều 5, 6, 7, 49 của đạo luật về
Ngân hàng Hàn Quốc cũng ngụ ý rằng cơ quan này trực thuộc chính phủ Hàn
Quốc và thuộc sở hữu nhà nước.
Dựa trên kết quả so sánh đối chiếu mô hình ngân hàng
trung ương theo pháp luật của một số nước có hoàn cảnh tương đồng với
Việt Nam (ví dụ: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Uzbekistan) và xem xét
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, các nhà soạn luật đã quyết định lựa chọn
mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ và do nhà nước sở hữu.
Sự lựa chọn này được thể hiện tại Điều 1 Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước
Việt Nam và sau đó được quy định trong Điều 1 Luật ngân hàng nhà nước
Việt Nam.() Đây là ví dụ điển hình về
việc sử dụng kết quả so sánh luật vào quá trình xây dựng pháp luật ngân
hàng Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường.
- Về cơ cấu tổ chức của ngân hàng trung ương
Việc thiết kế mô hình tổ chức của ngân hàng trung
ương như thế nào là vấn đề rất được quan tâm ở các nước. Theo thông lệ,
hầu hết các nước đều thiết kế ngân hàng trung ương phỏng theo mô hình tổ
chức của một doanh nghiệp, dù rằng trong lịch sử, nó luôn tồn tại như
là một định chế hỗn hợp của hai tính chất: Doanh nghiệp và chính quyền.()
Theo mô hình này, cơ cấu tổ chức của ngân hàng trung ương bao gồm cơ
quan quản trị, cơ quan điều hành tại trụ sở chính và có hệ thống chi
nhánh, văn phòng đại diện, sở giao dịch tại các nơi khác ở trong nước và
ở nước ngoài. Đặc biệt, ở ngân hàng trung ương các nước thường tồn tại
một cơ quan giữ vai trò đặc biệt, gọi là hội đồng tiền tệ (Hàn Quốc),
hội đồng chính sách tiền tệ (Trung Quốc, Pháp), hội đồng chính sách
(Nhật Bản), hội đồng các giám đốc (Đài Loan) hoặc hội đồng tư vấn chính
sách tiền tệ (Hoa Kì)()… Cơ quan này
có thể được thiết kế nằm trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng trung ương
(ví dụ ở Pháp) hoặc là một cơ quan độc lập ngoài bộ máy tổ chức của ngân
hàng trung ương (ví dụ ở Trung Quốc, Hàn Quốc…).()
Trong quá trình soạn thảo hai pháp lệnh ngân hàng và gần đây là hai đạo
luật ngân hàng, hầu hết các quy định nêu trên về mô hình tổ chức của
ngân hàng trung ương ở các nước đã được các nhà soạn luật nghiên cứu, so
sánh và tìm cách đưa vào pháp luật Việt Nam, xuất phát từ sự tương đồng
về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam với một
số nước khác trong khu vực châu Á. Sự du nhập các quy định này về cơ cấu
tổ chức của ngân hàng trung ương trong quá trình xây dựng pháp luật
ngân hàng ở Việt Nam đã có những thay đổi theo thời gian, được thể hiện
tại các điều 4, 5 Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước và sau này là Điều 4 Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam.()
- Về mục tiêu hoạt động của ngân hàng trung ương
Theo các đạo luật về ngân hàng trung ương của các
nước, cơ quan đặc biệt này được thành lập và hoạt động vì mục tiêu thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia, ổn định giá trị đồng tiền trong nước
và kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Ví dụ: Trong khi Luật ngân hàng Liên bang Đức quy định nhiệm vụ của Ngân hàng Liên bang Đức là: “Điều
tiết hoạt động lưu thông tiền tệ và cung ứng tín dụng cho nền kinh tế
với mục đích ổn định tiền tệ trong đối nội và đối ngoại…” (Tiết 3) thì Luật Ngân hàng nhân dân Trung Hoa lại quy định: “Mục tiêu của chính sách tiền tệ là duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế” (Điều 3). Còn đạo luật Ngân hàng Hàn Quốc thì quy định “Mục
tiêu hàng đầu của Ngân hàng Hàn Quốc là: 1) Duy trì sự ổn định giá trị
của đồng tiền để phục vụ cho sự phát triển kinh tế của quốc gia, và 2)
Thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế và tiếp tục sử dụng một cách hữu
hiệu các tài nguyên của quốc gia thông qua hoạt động an toàn và thực
hiện chức năng của hệ thống tín dụng và ngân hàng quốc gia” (Điều 3).
Xuất phát từ nhận thức cho rằng các mục tiêu nêu trên
là quy định chung trong pháp luật ngân hàng của các nước, các nhà làm
luật Việt Nam đã lựa chọn giải pháp xây dựng những quy định tương tự về
mục tiêu hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phù hợp với thông
lệ quốc tế. Mục tiêu này bước đầu được ghi nhận trong Điều 1 Pháp lệnh
ngân hàng nhà nước và sau đó được quy định rõ ràng hơn tại khoản 2 Điều 1
Luật Ngân hàng nhà nước.()
- Về hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trung ương
Có thể dễ dàng nhận thấy hầu hết các ngân hàng trung
ương ở các nước đều thực hiện những hoạt động nghiệp vụ giống nhau, đó
là nghiệp vụ phát hành tiền và quản lí, điều tiết lưu thông tiền tệ;
nghiệp vụ tín dụng và cung ứng các dịch vụ ngân hàng đối với hệ thống tổ
chức tín dụng và chính phủ; nghiệp vụ mua bán ngoại hối và quản lí dự
trữ ngoại hối vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Trên thực tế, các
hoạt động nghiệp vụ này cũng được quy định tương tự trong pháp luật
ngân hàng Việt Nam. Đó là một trong những bằng chứng sinh động chứng
minh quá trình hội nhập nhanh chóng của pháp luật ngân hàng Việt Nam với
pháp luật ngân hàng của nước ngoài và pháp luật ngân hàng quốc tế, dựa
trên các kết quả so sánh luật.
- Về địa vị pháp lí của các tổ chức tín dụng
Việc tiếp thu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của
nước ngoài luôn được xem là nhu cầu cần thiết đối với mọi quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật. Kể từ khi khởi động quá trình chuyển đổi
nền kinh tế theo hướng thị trường, các hoạt động so sánh luật trong lĩnh
vực ngân hàng đã chính thức được tiến hành tại Việt Nam. Một trong
những thành quả của quá trình này chính là sự khái quát hóa về các mô
hình ngân hàng đa năng theo kiểu Đức, kiểu Anh hay kiểu Nhật Bản và Hoa
Kì.() Kết quả này là cơ sở khoa học để
các nhà làm luật Việt Nam lựa chọn một mô hình thích hợp về địa vị pháp
lí của các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Theo các quy định
hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng, địa vị pháp lí của tổ chức tín
dụng tại Việt Nam được thiết kế theo hướng kết hợp giữa mô hình ngân
hàng đa năng theo kiểu Anh và kiểu Đức. Những quy định này cho phép mỗi
loại hình tổ chức tín dụng được quyền thực hiện các hoạt động ngân hàng
trong một phạm vi nhất định, tùy thuộc vào bản chất của tổ chức tín dụng
đó là ngân hàng hay không phải ngân hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín
dụng này cũng được phép góp cổ phần vào các doanh nghiệp khác bằng vốn
tự có của mình với một giới hạn nhất định; được phép tham gia vào các
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm thông qua việc thành lập
các công ti con trực thuộc có tư cách pháp nhân. Đây chính là sự tiếp
nhận có chủ đích các mô hình ngân hàng đa năng theo pháp luật của nước
ngoài vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thực tiễn cho thấy sự tiếp nhận
các mô hình này tỏ ra khá thích hợp với xu hướng phát triển lâu dài của
hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng
Ngoài các quy định về việc cấp, thu hồi giấy phép
hoạt động ngân hàng và những quy định về cơ cấu tổ chức nói chung của
một tổ chức tín dụng, luật ngân hàng của các nước đều tìm cách quy định
rõ các hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp mà một tổ chức tín dụng được
phép thực hiện. Các hoạt động này bao gồm việc huy động vốn dưới các
hình thức nhận tiền gửi kí thác từ công chúng, phát hành các giấy tờ có
giá ở trong nước hoặc nước ngoài, nhận các khoản tín dụng ngắn hạn từ
ngân hàng trung ương và sử dụng các nguồn vốn huy động này để cấp tín
dụng cho khách hàng đồng thời cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách
hàng vì mục tiêu lợi nhuận. Có thể dễ dàng tìm thấy những quy định này
trong Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc (Điều 2 và Điều 3); Luật về
ngành tín dụng Đức (Khoản 1 Tiết 1); Luật ngân hàng Ba Lan năm 1989
(Điều 11.1); Luật các tổ chức tài chính và ngân hàng năm 1989 – Đạo Luật
372 của Malaysia (khoản 2 phần mở đầu).()
Tương tự như luật ngân hàng của các nước, những hoạt
động chuyên nghiệp này cũng được ghi nhận khá đầy đủ trong Luật các tổ
chức tín dụng của Việt Nam.() Những
quy định này được xây dựng từ ý tưởng du nhập hoặc vay mượn các quy định
tiên tiến của nước ngoài, nhất là các nước phát triển như Đức, Pháp,
Hoa Kì, Nhật Bản hoặc các nước có điều kiện, hoàn cảnh tương tự Việt Nam
như Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia…()
Tóm lại, trong gần hai thập kỉ xây dựng và hoàn thiện
pháp luật ngân hàng Việt Nam, nhiều quy định pháp luật tiên tiến của
nước ngoài đã được du nhập vào Việt Nam nhờ việc sử dụng hữu hiệu luật
so sánh. Ngoài việc tiếp thu có chọn lọc các quy định hợp lí của pháp
luật nước ngoài, pháp luật ngân hàng Việt Nam cũng thừa nhận sự tồn tại
có tính cách tạm thời của một số quy định đặc thù trong giai đoạn nền
kinh tế chuyển đổi, chẳng hạn như việc duy trì vai trò chủ đạo của các
ngân hàng thương mại nhà nước trong một giai đoạn nhất định; quy định
chức năng quản lí nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với hệ
thống ngân hàng…
Sau gần hai mươi năm xây dựng các thiết chế và khung
khổ pháp lí cho một nền kinh tế thị trường từ nền tảng của một nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, pháp luật ngân hàng Việt Nam dù chưa
được hoàn thiện nhưng sự thừa nhận các nguyên tắc của thị trường trong
việc thiết kế các quy định về mô hình tổ chức và hoạt động nghiệp vụ của
ngân hàng trung ương cũng như các định chế tài chính trung gian ở Việt
Nam, có thể xem như là một bước tiến lớn trong tư duy pháp lí của các
nhà soạn luật. Điều này phản ánh rõ nét kết quả ứng dụng luật so sánh
vào lĩnh vực xây dựng pháp luật ngân hàng ở nước ta trong hơn thập kỉ
vừa qua. Những thành tựu này sẽ là tiền đề thuận lợi cho việc tiếp tục
ứng dụng luật so sánh vào quá trình hoàn thiện pháp luật ngân hàng Việt
Nam trong thời gian tới./.
([1]).Xem: Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật ngân hàng trung ương một số nước (tài liệu hội thảo), Hà Nội 1996.
([3]).Xem: Lê Vinh Danh, “Tiền và hoạt động ngân hàng”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1997, tr. 81.
([4]).Xem: Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật ngân hàng trung ương một số nước (tài liệu hội thảo), Hà Nội 1996.
([5]).Xem: – Lê Vinh Danh, “Tiền và hoạt động ngân hàng”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1997, tr. 90, 91, 92, 93, 94, 95.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật ngân hàng trung ương một số nước (tài liệu hội thảo), Hà Nội 1996.
([6]). Theo quy định trước
đây của Pháp lệnh ngân hàng nhà nước, cơ quan tư vấn cho Chính phủ về
chính sách tiền tệ ở Việt Nam chính là Hội đồng quản trị, được thiết kế
nằm trong bộ máy tổ chức của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, với tư cách là
cơ quan giữ quyền quản trị ngân hàng nhà nước (quy định này có lẽ được
du nhập từ mô hình Ngân hàng trung ương của Ba Lan, Hungari, Malaysia…).
Tuy nhiên, khi soạn thảo Luật ngân hàng nhà nước, nhà làm luật đã có
những thay đổi quan trọng về cơ quan này trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm điều chỉnh pháp luật của nước ngoài cho phù hợp với tiến trình
phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Theo quy định tại Điều 4 Luật ngân
hàng nhà nước, việc quản trị ngân hàng nhà nước được chuyển sang cho
Thống đốc và nhiệm vụ tư vấn cho Chính phủ về chính sách tiền tệ được
chuyển giao cho Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ, được thiết kế độc
lập với bộ máy tổ chức của Ngân hàng nhà nước Việt Nam (quy định này
được xây dựng dựa trên việc tiếp nhận mô hình tổ chức của Ngân hàng
trung ương ở Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác ở châu Á).
([7]). Điều 1 Pháp lệnh ngân
hàng nhà nước chỉ ghi nhận mục tiêu chính trong hoạt động của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam là “ổn định giá trị đồng tiền”. Còn khoản 2 Điều 1
Luật ngân hàng nhà nước lại có những quy định mở rộng và rõ ràng hơn:
“Hoạt động của ngân hàng nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp
phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín
dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
([8]). Theo mô hình ngân hàng
đa năng kiểu Đức, các ngân hàng thương mại được phép cung ứng toàn bộ
các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm, thậm chí còn được phép
sở hữu cổ phần trong các doanh nghiệp khác. Đối với mô hình ngân hàng đa
năng theo kiểu Anh, ngoài việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng, các ngân
hàng thương mại cũng tham gia vào lĩnh vực chứng khoán nhưng phải thông
qua các công ti con có tư cách pháp nhân đồng thời, các ngân hàng này
cũng ít nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp thương mại khác và hầu như
không có sự kết hợp giữa hoạt động ngân hàng với hoạt động bảo hiểm. Còn
đối với mô hình ngân hàng đa năng theo kiểu Nhật Bản và Hoa Kì, điểm
khác biệt lớn nhất so với hai mô hình kia chính là sự tách bạch rõ ràng
giữa hai ngành công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán, cùng
với khả năng nắm giữ hạn chế hoặc bị cấm nắm giữ các cổ phần trong các
doanh nghiệp thương mại. Tuy nhiên, gần đây sự khác biệt này đang có xu
hướng mờ nhạt dần bởi sự hài hòa hóa và thống nhất hóa giữa các hệ thống
pháp luật trên thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nguồn: Ngân hàng
nhà nước Việt Nam, tài liệu tham khảo mô hình ngân hàng tại các nước
phát triển.
([9]).Xem: Ngân hàng nhà nước
Việt Nam, Luật ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng một số
nước”, (tài liệu hội thảo), Hà Nội 1996.
([11]).Xem: Ngân hàng nhà
nước Việt Nam, Luật ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng một số
nước”, (tài liệu hội thảo), Hà Nội 1996.
Các bài viết cùng tác giả: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=%22NGUY%E1%BB%84N+V%C4%82N+TUY%E1%BA%BEN%22
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 4/2007



3:12 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment