LÊ HỒNG THỌ
Từ
tháng 11.2007 giá tiêu dùng tăng vọt, báo động dấu hiệu của lạm phát sẽ
ập tới trong những ngày cuối năm khi chỉ số giá cả của “rổ hàng hóa”
tăng trên 12%, vượt mức tăng trưởng GDP là 8-8,5%. Sự thật đã diễn ra
đúng như dự đoán của các nhà kinh tế.
Nhìn lại chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2007 đã tăng
12,6%, sang tháng 2.2008 đã tăng lên 6,04% và chưa có dấu hiệu giảm tốc
trong tháng 3 khi giá xăng dầu tiếp tục tăng, cuốn vật giá leo thang sẽ
đẩy lạm phát vượt mức 14% một cách dễ dàng.
Nguyên nhân gây ra lạm phát có nhiều, được phân tích
khá kỹ trên các báo; các yếu tố khách quan (giá dầu thô, vàng trên thị
trường thế giới, khủng hoảng tiền tệ tại Mỹ, suy thoái kinh tế xảy ra
khắp nơi cùng với những cuộc tranh chấp chính trị, dầu mỏ tạo ra một sự
bất ổn…) và chủ quan (cách điều hành kinh tế vĩ mô chậm chạp, không bắt
kịp chuyển động của nền kinh tế, lượng ngoại tệ thu vào để dự trữ hơn 9
tỉ đô la, tốc độ thực hiện dự án đầu tư nước ngoài chậm, nhập siêu hơn
12 tỉ đô la trong năm 2007…) đã làm giảm ý nghĩa tích cực và nội dung
tăng trưởng kinh tế mà Thủ tướng chính phủ cũng như các bộ liên quan đã
nêu trong những phiên họp tổng kết cuối năm.
Trước nguy cơ đe dọa nghiêm trọng này, bước vào tháng
2, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện “cấp tốc” một chính sách
khống chế lạm phát khá mạnh tay, trong đó ưu tiên thu hồi 20.300 tỉ đồng
qua việc bắt buộc các ngân hàng thương mại mua tín phiếu của NHNN với
lãi suất rất thấp 7,8%/năm (so với thị trường đang ở mức 11-14%/năm).
Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại còn phải tăng tỷ lệ tiền dự trữ
bắt buộc, từ 10% lên 11%, điều này có nghĩa là các ngân hàng thương mại
phải thu hồi – từ các nơi đã cho vay – thêm 20.000 tỉ đồng về tủ sắt của
mình theo lệnh của NHNN. Với 2 biện pháp này trên thị trường tiền tệ đã
xảy ra nạn khan hiếm tiền mặt, ít nhất là 40.300 tỉ đồng trong một thời
gian cực ngắn, đe dọa đến hoạt động tín dụng, cho vay, thanh toán… bình
thường của khối ngân hàng thương mại, mở ra một cuộc chạy đua nâng lãi
suất để hút lượng tiền trong dân nhằm duy trì hoạt động “chịu lỗ”. Hiệu
ứng này không dừng lại ở đây, thể hiện qua chỉ số VN-Index trên thị
trường chứng khoán đỏ rực từ khi năm mới bắt đầu, liên tục hạ mức sàn
còn 650-700 điểm, giảm giá trị thực tế 30-35%, gây thiệt hại không nhỏ
cho các nhà đầu tư ngắn hạn và tạo ra một cơ hội “vàng” cho các nhà đầu
cơ trường vốn trong và ngoài nước.
Song song với diễn tiến này, giá nhà đất đô thị (đặc
biệt là các chung cư cao tầng…) nhảy vọt đến mức khủng khiếp, trong đó
giá vàng đã tác động không nhỏ. Vì vậy nhiều nhà đầu tư chứng khoán vội
vàng chuyển hướng, nhảy sang lĩnh vực đầu cơ địa ốc vì siêu lợi nhuận
còn tiếp tục trong khung cảnh đầu tư nước ngoài đang có khuynh hướng
ngày càng tăng, nạn khan hiếm văn phòng, nhà ở… dự đoán vẫn còn tiếp
diễn trong 5-7 năm tới.
Việc cho vay để đầu tư vào thị trường chứng khoán
cũng đã bị siết chặt bởi Quyết định 03/2008 của NHNN. Cuộc chạy đua về
lãi suất, trong đó lãi suất qua đêm của liên ngân hàng có thể lên đến
30-35%/năm như đã thấy trong ngày 18.2 vừa qua. Hành động chạy đua này
có thể đưa đến khủng hoảng tài chính, gây hiệu ứng dây chuyền về một nạn
lạm phát mới rất nguy hiểm nếu không có biện pháp tháo ngòi nổ. Ngày
22.2.2008, trước sức ép quá nóng nêu trên, NHNN đã phải “bơm” vào thị
trường 39.000 tỉ đồng trong vòng một tuần lễ, một biện pháp chữa cháy,
một mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có, nhưng các ngân hàng thương mại
cổ phần cũng đành bó tay vì không có khả năng “vay” lại của nhà nước và
đành phải chấp nhận lãi suất qua đêm 30-43%/năm của thị trường vốn liên
ngân hàng.
Ba tuần trước đây, NHNH đã “bứt dây động rừng” bằng
sáng kiến “giảm lạm phát” thô bạo, dù đã phải “trả lại” bằng cách “nhả”
tiền ra thị trường như đã nói. Chưa ai biết diễn tiến của thị trường
tiền tệ sẽ đến mức nào, mặc dù NHNN đã khuyến cáo các ngân hàng khống
chế lãi suất trần là 12% vào ngày 25.2.2008 vừa qua, nhưng những dấu
hiệu khả quan, hy vọng khôi phục lại sự năng động của nhà đầu tư cũng
như hoạt động cho vay tín dụng – thế chấp chưa được hồi phục. Mức tăng
trưởng GDP trong năm 2008 sẽ phải là 8,5-9% như mục tiêu đã đề ra đang
bị đe dọa sụt giảm như lời cảnh báo của ông Kuroda Haruhiko, Chủ tịch
Ngân hàng Phát triển châu Á ngày 21.2.2008 tại Hà Nội.
Đành rằng biện pháp dùng lãi suất để điều tiết thu
hồi lượng tiền lưu thông, hạn chế cho vay tín dụng hay tăng lượng quỹ dự
phòng của các ngân hàng thương mại… nhằm ngăn chặn lạm phát là những
biện pháp kinh điển nhất, nhưng trên cơ sở là lãi suất phải cao hơn tỷ
lệ lạm phát. Đồng thời tất cả những điều này phải thực hiện để củng cố
và phát triển sản xuất, cân bằng cán cân thương mại, hạn chế chi tiêu
của chính phủ, hạn chế đầu tư quá sức gây mất cân đối… mới khắc phục
được. Như chúng ta thấy Trung Quốc vẫn giữ vững phát triển với mức tăng
trưởng cao, trên 11% GDP trong khi mức độ lạm phát là 7,1% và liên tục
xuất siêu, mặc dù những chỉ trích về chất lượng hàng hóa, an toàn thực
phẩm xuất khẩu vẫn chưa nguôi. Bài học này rất đáng tham khảo, nhất là
đừng vì biện pháp tiền tệ mà gây cản trở, tạo thêm gánh nặng cho người
đầu tư vào các ngành sản xuất – xuất khẩu và đời sống của người dân.
Cần tiếp tục kích thích sản xuất, kể cả biện pháp cho
vay với lãi suất ưu đãi không thể không tính đến, vì điều này không hề
là lý do tạo ra lạm phát mà ngược lại, giúp sớm ổn định tình hình và duy
trì mức tăng trưởng. Con số 4 tỉ USD nhập siêu trong 2 tháng đầu năm
và dự kiến sẽ lên đến 18-20 tỉ USD trong năm 2008 là những nhân tố tiêu
cực thúc đẩy lạm phát tăng nhanh. Phải chăng cần có chính sách “thắt
lưng buộc bụng” ngay từ bây giờ bằng cách rà soát triệt để việc chi
tiêu, không dồn tiền vào những công trình chưa thật cần thiết của chính
phủ.
Thiết nghĩ điều cần nhất hiện nay là tạo một tâm lý
ổn định, không gây hoảng loạn thêm bằng những thông tin chính xác, nhanh
nhạy và kịp thời từ phía NHNN hay của người đứng đầu bộ máy điều hành
vĩ mô. Hãy để cho thị trường nhà đất và chứng khoán trở về với giá thật
của chúng, không cần nuôi dưỡng một thị trường bong bóng, tạo cơ hội
cho những nhà đầu cơ trục lợi trong lúc “dầu sôi lửa bỏng”. Việc sớm
hoàn chỉnh luật thuế sát sao hơn, phù hợp với lợi tức siêu ngạch từ mua
bán nhà đất và chứng khoán cần phải được tính đến, xem đây là một trong
những biện pháp chống lạm phát tích cực.
Dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ còn
tăng nhanh trong vài năm tới, nhưng tình hình bất ổn hiện nay sẽ là cản
trở lớn, có nguy cơ đánh mất cơ hội đang ở trong tầm tay. Tuần qua, Tổ
chức phát triển mậu dịch JETRO của Nhật bản vừa công bố kết quả thăm dò
các giới công nghiệp sản xuất, chế tạo ở Nhật bản, 96% trả lời rằng sẽ
chuyển qua Việt Nam để đầu tư phát triển thay vì Trung Quốc như từ trước
đến nay, cho thấy nước ta không còn là thị trường đầu tư tiềm năng mà
đang trở thành điểm đến đầy hy vọng của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thiết nghĩ các biện pháp cần thiết để giảm lạm phát
cần được sự đồng thuận của nhân dân với tính toán lâu dài trong mục tiêu
tạo ra tiền đề cho sự phát triển bền vững một cách chiến lược hơn.



3:13 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment