BÙI TẤT THẮNG
Kể từ khi đổi mới đến nay, nền kinh tế
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: trong thời kỳ thực hiện
chiến lược 10 năm 1991-2000, nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng;
trong thời kỳ 5 năm đầu tiên thực hiện chiến lược 10 năm 2001-2010, nền
kinh tế dường như “không chệch hướng” khỏi quỹ đạo đạt tốc độ tăng
trưởng hằng năm tương đối cao. Ngoài ra còn các thành tích khá ấn tượng
về ổn định kinh tế vĩ mô, về tốc độ tăng giá trị xuất khẩu hằng năm, về
xóa đói giảm nghèo… Chính những thành tích đạt và vượt kế hoạch ấy đôi
khi đã làm dịu đi nỗi băn khoăn về một số chỉ tiêu khác của đổi mới chưa
đạt kế hoạch. Một trong số những chỉ tiêu ấy là cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước.
1. Cổ phần hóa – tiến trình và thực trạng
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một bộ
phận trong tổng thể công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, điều cần khẳng định trước tiên là mục tiêu của đổi mới
doanh nghiệp nhà nước phải phù hợp với mục tiêu chung của toàn bộ chương
trình đổi mới nền kinh tế, trong đó điều cốt lõi là nguyên tắc thị
trường sẽ thay thế nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung. Theo tinh thần
này, hai mục tiêu trực tiếp nổi bật của đổi mới doanh nghiệp nhà nước là
nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn và đảm
bảo cho doanh nghiệp nhà nước góp phần cùng kinh tế nhà nước nói chung
làm tốt hơn “vai trò chủ đạo” trong nền kinh tế. Trong hai mục tiêu này
thì mục tiêu hiệu quả có ý nghĩa quyết định, vì suy cho cùng, doanh
nghiệp nhà nước có giữ được vai trò chủ đạo hay không sẽ phụ thuộc vào
tính hiệu quả của nó. Nền kinh tế không thể trông cậy vào một lực lượng
được gọi là chủ đạo khi nó không có hiệu quả.
Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước
trên thực tế được triển khai trên nhiều bình độ, trong đó nổi lên một xu
hướng được coi là chủ lưu: đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước. Trong chương trình “đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước”
thì ai cũng biết, cổ phần hóa các doanh nghiệp là một nội dung được coi
là chủ yếu. Chương trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được khởi
động từ đầu những năm 1990 đến nay đã làm được nhiều việc; trong đó ấn
tượng nhất là số lượng doanh nghiệp nhà nước từ hơn 12 nghìn năm 1992 đã
giảm xuống còn gần 2.200 (9-2006); trong đó, hơn 1.500 doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và
sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, số còn lại là các nông,
lâm trường quốc doanh, với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng.
Một phần trong số này nằm trong 105 tập đoàn và tổng công ty (trong đó 7
tập đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa
phương và 2 tổng công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – khoáng sản
Việt Nam).
Đóng góp vào mức giảm số lượng gần 10
nghìn doanh nghiệp nhà nước từ năm 1992 đến nay, hình thức cổ phần hóa
chỉ chiếm 1/4 (3.060 doanh nghiệp), còn 6.740 doanh nghiệp (3/4 số doanh
nghiệp) giảm đi qua các hình thức chuyển đổi, sáp nhập và một phần
không đáng kể bị giải thể.
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và
phát triển doanh nghiệp, nhìn chung các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều
nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh với các mức độ khác nhau.
Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của
850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều
lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực
hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp
sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân
tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động
tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%(1).
Báo cáo tình hình thực hiện cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tại phiên họp thứ 43 của ủy ban Thường vụ Quốc hội
(ngày 21-9-2006) nhận định:
“Qua hơn 15 năm triển khai, chủ trương cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những hiệu quả về kinh tế,
chính trị, xã hội nhất định, tạo sự rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ,
trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; xoá bỏ cơ chế phân
phối bình quân; hình thành phương thức phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ
góp vốn, giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các
cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước; tạo cơ chế quản lý tự
chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm thúc đẩy doanh nghiệp năng động hơn; tạo
cơ sở pháp lý và vật chất để người lao động xác lập và nâng cao vai trò
làm chủ, gắn bó máu thịt với doanh nghiệp. Kết quả nổi bật của cổ phần
hoá là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước được nâng lên
đáng kể. Họ phải tự tìm kiếm cơ hội, đối tác kinh doanh, chủ động đổi
mới công nghệ, tiết kiệm tối đa các chi phí để tăng doanh thu. Cổ phần
hoá cũng đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư cho phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Dưới góc độ phân
công lao động trong xã hội, cổ phần hoá đã thật sự giải phóng sức lao
động từ chỗ đông mà không mạnh, ỷ lại, dựa dẫm, thụ động chuyển sang chủ
động, tích cực hơn trong nền kinh tế nhiều thành phần với thái độ đầy
đủ hơn, trách nhiệm hơn, góp phần tăng thu nhập cho xã hội, cho Nhà nước
và cho người lao động”(2).
Và cũng theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi
mới và phát triển doanh nghiệp, sau quá trình thực hiện sắp xếp, số
lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối
những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng
góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách nhà nước(3).
Thực tiễn đó đã đủ để khẳng định, về cơ
bản cổ phần hóa là một hướng đổi mới doanh nghiệp phù hợp với tiến trình
đổi mới kinh tế nói chung. Nhưng, một nghịch lý đã từng tồn tại ngay từ
khi công cuộc cổ phần hóa được khởi động cho đến tận nay là “Tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp Việt Nam còn chậm, chưa đạt yêu cầu”
như nhan đề của một bài viết đăng trên website của Đảng (ngày
21-9-2006). Bản báo cáo nêu rõ: những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001,
số lượng doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa tăng đáng kể, nhưng
nhìn chung việc triển khai còn chậm. Số doanh nghiệp được cố phần hóa
tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn trong các doanh
nghiệp nhà nước; nếu trừ đi phần vốn nhà nước còn giữ lại gần 50% trong
các doanh nghiệp cố phần hóa, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ chiếm khoảng
6%. So với mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX thì còn chậm,
nhất là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực
tài chính, ngân hàng. Tiến độ cổ phần hóa không đồng đều giữa các bộ,
ngành, địa phương; một số bộ, ngành chưa hoàn thành theo đề án đã được
phê duyệt…(4).
Như vậy, tuy số lượng doanh nghiệp có thể
nhiều, nhưng xét về chỉ tiêu vốn đã được cổ phần hóa thì coi như không
đáng kể, thậm chí chưa xứng với một chương trình lớn ở tầm quốc gia, bởi
vì cổ phần hóa dường như ít ảnh hưởng tới nguyên tắc thị trường của các
doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn bộ cơ chế vận hành của nền kinh
tế nói chung. Điều này cũng có nghĩa là, mục tiêu chính của sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước là góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi cơ
chế của nền kinh tế, làm cho nguyên tắc thị trường thay thế nguyên tắc
kế hoạch hóa tập trung, vẫn chưa đạt được như mong đợi.
Chính vì vậy mà tại Hội nghị về sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006-2010 được tổ chức ngày
7-10-2006 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Nhiệm vụ sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp trong 5 năm tới trọng tâm là cổ phần hóa. Mục
tiêu đến năm 2010, chúng ta sẽ cơ bản cổ phần hóa xong doanh nghiệp nhà
nước”. Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước từ nay đến 2010 là đẩy mạnh sắp xếp, cố phần hóa
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Theo đó, từ nay đến hết năm
2010 sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp
thành viên của tổng công ty nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008),
trong đó, năm 2007 phải cổ phần hóa 550 doanh nghiệp (có khoảng 20 tổng
công ty), số còn lại sẽ thực hiện trong các năm 2008-2009, một số công
ty và số ít doanh nghiệp chưa cố phần hóa được thực hiện trong năm 2010.
Theo kết quả này, đến cuối năm 2010, cả nước sẽ chỉ còn 554 doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô
lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản
xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150
doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước(5).
Có thể nói rằng, đây là một trong những
nhiệm vụ rất khó khăn trong những năm sắp tới. Bởi vì như thực tiễn
nhiều năm qua đã cho thấy, không chỉ khối lượng công việc phải tiến hành
rất lớn, mà còn có thể phải đối mặt với không ít trở lực. Trong 4 năm
sắp tới (2007-2010) sẽ phải cổ phần hóa 1.500 doanh nghiệp (bình quân
mỗi năm cổ phần hóa 375 doanh nghiệp), riêng năm 2007 đặt kế hoạch cổ
phần hóa 550 doanh nghiệp. Chỉ tiêu này tuy không cao hơn nhiều so với
kế hoạch của một số năm trước, nhưng so với kinh nghiệm thực hiện nhiều
năm thì rất cao. Như trên đã nêu, trong khoảng 15 năm (1992-2006), cả
nước cổ phần hóa được 3.060 doanh nghiệp, tức là bình quân mỗi năm cổ
phần hóa được 204 doanh nghiệp. Tất nhiên, với quyết tâm cao và kinh
nghiệm đã tích lũy được, hoàn toàn có cơ sở để hoàn thành mục tiêu này,
dĩ nhiên là còn cần phải có những đổi mới mạnh mẽ trong phương thức tiến
hành cổ phần hóa.
Thật vậy, với cách làm như từ trước đến
nay, diện mạo của tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam là: “quy mô doanh nghiệp được sắp xếp hoặc cổ phần hóa trong thời
gian qua chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tổng số doanh
nghiệp được cổ phần hóa có trên 2.600 đơn vị có quy mô dưới 10 tỉ đồng.
Tuy việc cố phần hóa các doanh nghiệp quy mô trên 10 tỉ đồng đã tăng lên
trong các năm 2004-2005, số doanh nghiệp dưới 10 tỉ vẫn chiếm 80% tổng
số được cổ phần hóa… Đáng chú ý, trong số các đơn vị đã cổ phần hóa có
tới gần 1.200 đơn vị nhà nước tiếp tục giữ trên 50% vốn điều lệ, tỷ lệ
này tương đương khoảng 33% nhưng hầu hết đây là những doanh nghiệp có
vốn lớn.
Nhiều doanh nghiệp không thuộc diện Nhà
nước nắm 100% vốn nhưng đã tránh cổ phần hóa bằng cách chuyển sang mô
hình công ty mẹ – công ty con hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên. Số lượng doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ công ích còn lớn,
nhưng không ít doanh nghiệp có số thu từ dịch vụ công ích dưới 20%.
Hiệu quả của quá trình sắp xếp, cổ phần
hóa vẫn chưa được như mong đợi. Tuy Chính phủ đã hỗ trợ: loại trừ tài
sản và công nợ không tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa trên
2.500 tỉ đồng; xóa nợ thuế và các khoản phải nộp Nhà nước trên 310 tỉ
đồng; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trên 1.000 tỉ đồng; chi phí cho
cải cách doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại để hỗ trợ doanh
nghiệp sắp xếp và xử lý nợ và lỗ là 2.962 tỉ đồng; hỗ trợ lao động dôi
dư 6.000 tỉ đồng; chi xử lý nợ các ngân hàng thương mại 8.317 tỉ đồng.
Tình trạng này cho thấy, cổ phần hóa chưa đạt được kết quả tương xứng với sự kỳ vọng cũng như hỗ trợ của Nhà nước”(6).
Một khía cạnh rất quan trọng khác của
tình hình là bộ máy quản lý và phương thức hoạt động của các doanh
nghiệp được cổ phần hóa. Công chúng vẫn thấy một tình hình rất phổ biến
là những “Công ty cổ phần nhà nước”. Bởi vì, “Sau khi cổ phần hóa,
khoảng 81,5% giám đốc, 78% chức danh phó giám đốc và kế toán trưởng
không có sự thay đổi. Điều này cho thấy trên thực tế là nhiều doanh
nghiệp sau cổ phần hóa vẫn hoạt động như trước cả về tổ chức, tư duy,
công nghệ, quản lý và triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp của doanh
nghiệp nhà nước. Nếu có thay đổi chỉ là giám đốc doanh nghiệp nhà nước
cũ trở thành lãnh đạo mới của công ty cổ phần, chưa có doanh nghiệp nào
sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành”(7).
Rõ ràng, để tăng tốc tiến trình cổ phần
hóa trong những năm tới, cần phải xem xét lại nhiều vấn đề liên quan,
trong đó đặc biệt là các chính sách thực thi cổ phần hóa đã và đang được
áp dụng.
2. Cổ phần hóa – quan điểm và triển vọng
Với tình hình triển khai và những kết quả
đạt được như nêu tóm tắt ở phần trên, có thể nhận xét khái quát rằng,
vẫn còn tồn tại một lực cản lớn đối với cổ phần hóa, bất chấp những bằng
chứng về hiệu quả thực tế có sức thuyết phục của nó ra sao. Trên các
diễn đàn cũng như các sách báo đã xuất bản, cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu, bài viết, phân tích về các loại nguyên nhân của tình hình cổ
phần hóa chậm chạp. Trong số đó, phải đặc biệt kể đến một nguyên nhân
mang tính lý luận sâu xa mà một trong những bài viết đã nêu là: “cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước: “ách tắc” từ nhận thức”, do vậy, trước hết
cần “Phải khai thông nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước”(8).
Và để góp phần thảo luận thêm về vấn đề
này, chúng tôi xin được trao đổi lại một lần nữa về bản chất kinh tế của
chế độ cổ phần dưới góc độ của kinh tế chính trị học(9).
a) Sự phát triển và bản chất kinh tế của hình thái cổ phần(*)
So với các hình thái sở hữu khác trong
khuôn khổ của kinh tế thị trường, hình thái cổ phần ra đời muộn hơn cả.
Điều đó tự nó hàm nghĩa rằng, sự ra đời của hình thái cổ phần phải dựa
trên những tiền đề vật chất và thiết chế kinh tế nhất định. Đó là sự
phát triển ở mức độ cao của sức sản xuất xã hội cũng như mức độ hoàn
thiện của cơ chế của các quan hệ hàng hóa – tiền tệ tương ứng với nó. Về
mặt lô-gíc, có thể tóm tắt các bước phát triển của các hình thái sở hữu
tiến đến hình thái cổ phần đại thể là: từ hình thái kinh doanh một chủ,
phát triển lên hình thái kinh doanh chung vốn (hình thái kinh doanh hợp
tác xã của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hình thái công ty chung
vốn của các nhà tư bản), và cuối cùng là hình thái công ty cổ phần. Các
bước phát triển trên cũng diễn ra một cách tuần tự về phương diện lịch
sử, tuy rằng giữa các bước chuyển tiếp của các giai đoạn không hề có một
ranh giới rạch ròi nào cả. Và do sự phát triển không đều giữa các nền
kinh tế cũng như giữa các lĩnh vực khác nhau của mỗi nền kinh tế, ngày
nay ở bất cứ quốc gia nào cũng có một kết cấu đa sở hữu với sự có mặt
của tất cả mọi loại hình thức sở hữu nói trên. Song điều đặc biệt đáng
chú ý là, càng ở những nền kinh tế có trình độ phát triển cao thì vai
trò của hình thái cổ phần càng lớn. Ở những nền kinh tế này, tuy số
lượng những công ty cổ phần nhỏ hơn rất nhiều so với các loại hình công
ty khác, nhưng nó lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư
và quy mô kinh tế mà nó chi phối trong toàn bộ nền kinh tế.
Ngay từ thế kỷ trước, Ph.Ăng-ghen (năm 1895) – trong phần bổ sung cho tập III bộ Tư bản
của C.Mác – đã đánh giá về vai trò và triển vọng của hình thái cổ phần
như sau: “Hãng cá thể thông thường ngày càng chỉ là một giai đoạn chuẩn
bị nhằm đưa xí nghiệp tới một trình độ đủ lớn để trên cơ sở xí nghiệp đó
mà “thành lập” công ty cổ phần”(10). Hơn nữa, điều đó không
chỉ đúng với các ngành công nghiệp mà còn diễn ra ở khắp mọi lĩnh vực
hoạt động kinh tế: thương nghiệp, ngân hàng và các cơ quan tín dụng,
nông nghiệp và “hết thảy mọi khoản đầu tư tư bản ra nước ngoài đều tiến
hành dưới hình thức cổ phần”(11).
Mức độ phổ biến của hình thái cổ phần
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường không phải chỉ là do nó có ưu
thế tuyệt đối trong việc tập trung vốn của xã hội cho những mục tiêu
kinh doanh, mà còn bao hàm trong đó những điểm nổi bật sau:
- Dưới hình thức cổ phần những người đồng
sở hữu công ty (những cổ đông) chỉ được hưởng lợi và chỉ phải chịu
trách nhiệm có giới hạn ở khuôn khổ số tiền mà họ đã bỏ ra để mua cổ
phiếu của công ty. Như vậy, một mặt về pháp lý, họ chỉ có quyền nhân
danh cá nhân mình chịu trách nhiệm về phần tài sản của mình đã góp vào
công ty theo luật định. Mặt khác, qua thị trường chứng khoán, sự di
chuyển của các cổ phiếu với tư cách là hàng hóa vốn đầu tư, công chúng
(các cổ đông) đã “bỏ phiếu tín nhiệm” có sự bảo đảm “bằng vàng” của mình
cho những ngành, những lĩnh vực, những công ty mà họ cho là có triển
vọng nhất. Đồng thời, cơ chế này còn giúp mỗi người đầu tư phân tán được
nguồn vốn có hạn của mình vào nhiều lĩnh vực để tránh những rủi ro khó
tránh trong kinh doanh. Vậy là sự tham gia có tính chất xã hội của công
chúng vào các quan hệ sở hữu và quá trình quản lý, lựa chọn cơ cấu
ngành… đã trở thành những gợi ý thực tiễn thiết thực đối với những nhà
hoạch định chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô.
- Hình thái cổ phần đã thực hiện việc
tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng vốn kinh doanh nên đã tận
dụng được một cách tốt nhất nguồn tài nguyên kinh doanh khan hiếm của
xã hội thông qua chế độ “thuê” các nhà quản trị doanh nghiệp chuyên
nghiệp, do các cổ đông, tức các chủ nhân thật sự của vốn đầu tư tiến
hành lựa chọn. Do vậy, tính chất vô danh hay nặc danh của hình thái cổ
phần hoàn toàn khác với tính chất vô chủ ở một trong những điểm quan
trọng là nó gắn với cơ chế sử dụng được triệt để nguồn tài nguyên kinh
doanh của xã hội thay vì để lãng phí chúng, và do đó mà đạt được hiệu
quả kinh tế cao hơn.
- Việc đầu tư tư bản ra nước ngoài dưới
hình thái cổ phần đã trực tiếp mở rộng tính chất xã hội hóa của nền sản
xuất xã hội vượt ra khỏi phạm vi mỗi quốc gia, khiến cho xu hướng quốc
tế hóa đời sống kinh tế mở rộng ngay từ trong bản thân quá trình sản
xuất.
Như vậy, trong mối tương quan với các
hình thức kinh tế khác trong khuôn khổ của kinh tế thị trường, hoàn toàn
có thể coi hình thái cổ phần là loại hình tổ chức đạt trình độ xã hội
hóa cao nhất, thích ứng với trình độ phát triển rất cao của sức sản xuất
xã hội. Về điều này, C.Mác đã từng nhận xét rằng, với việc thành lập
những công ty cổ phần “có những xí nghiệp trước kia là của chính phủ,
nay trở thành những xí nghiệp xã hội” và các công ty cổ phần “trực tiếp
mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên
hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân; còn những xí nghiệp của
nó biểu hiện ra là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư
nhân”(12). Thêm nữa, đây “là điểm quá độ tất nhiên để tư bản
lại trở thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư
cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư
cách của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp. Mặt khác,
các công ty cổ phần cũng là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng
trong quá trình tái sản xuất cho đến nay còn gắn liền với quyền sở hữu
tư bản, đơn thuần thành những chức năng của những người sản xuất xã hội”(13).
Điều này có nghĩa là, theo cách tiếp cận của học thuyết hình thái kinh
tế – xã hội của chủ nghĩa Mác thì “chế độ cổ phần… là sự thủ tiêu công
nghiệp tư nhân trên cơ sở chính ngay bản thân chế độ tư bản chủ nghĩa;
nó càng lan rộng ra và càng bao trùm những ngành sản xuất mới, thì càng
thủ tiêu công nghiệp tư nhân”(14). Nhân khi biên tập để xuất bản bản thảo tập thứ III bộ Tư bản
của C.Mác, đến vấn đề này, ngay từ năm 1894, Ph.Ăng-ghen đã viết thêm
vào: “Từ khi Mác viết những dòng này cho đến nay, người ta đều biết rằng
nhiều hình thái mới về xí nghiệp công nghiệp đã phát triển, đấy là công
ty cổ phần ở bậc 2 và bậc 3. Tốc độ mỗi ngày một lớn mà ngày nay, người
ta có thể đẩy nhanh sản xuất ở trong tất cả các ngành của nền đại công
nghiệp…”(15).
Với lô-gíc ấy, thật không khó khăn gì khi
thấy rằng, trong các sách báo kinh tế hiện đại, nhiều khi người ta bắt
gặp các phân tích, đánh giá về một thứ “chủ nghĩa tư bản nhân dân” như
là một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì nhiều
lý do, không nhất thiết phải sẻ chia với uyển ngữ này, nhưng lại không
phải vì thế mà phủ nhận được một thực tế là, việc đầu tư ở quy mô quảng
đại công chúng thông qua thể thức của loại hình “công ty vô danh có cổ
phần” là rất có ý nghĩa đối với thu nhập và cuộc sống của bản thân những
người tham gia đầu tư vào công ty này.
Tóm lại, trong khuôn khổ của cơ
chế kinh tế thị trường, hình thái cổ phần mang trong mình nó tính chất
xã hội hóa sản xuất sâu sắc, là kiểu tổ chức sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất và chiếm vị trí ưu thế, phổ
biến trong các nền kinh tế thị trường hiện đại. Theo nghĩa này, bất kỳ
kiểu tổ chức nào nhân danh sự xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đều cần
phải xem hình thái cổ phần như một trong những hình thái tổ chức sản
xuất quan trọng chủ yếu của chế độ kinh doanh.
b) Triển vọng cổ phần hóa ở Việt Nam
Như trên đã trình bày, hình thái cổ phần
là một hình thái tổ chức sản xuất chứa đựng tính chất xã hội hóa rất cao
trong khuôn khổ của kinh tế thị trường, nên việc cổ phần hóa ở nước ta
hiện nay với nội dung chủ yếu là chuyển một phần các doanh nghiệp nhà
nước (hay còn gọi là các doanh nghiệp quốc doanh) sang hình thức công ty
cổ phần về thực chất là sự chuyển đổi hình thức xã hội hóa quá trình
sản xuất từ dạng doanh nghiệp quốc doanh sang dạng công ty cổ phần. Sự
thay đổi ở đây không phải là bản chất xã hội hóa của sản xuất mà là
phương cách tổ chức sản xuất kinh doanh, phù hợp với sự chuyển đổi cơ
chế kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.
Vì thế, sự trì trệ của tiến trình cổ phần hóa ở nước ta sẽ là không có
lý do chính đáng nếu cho rằng nguyên nhân của tình hình chủ yếu do sự
“ách tắc” về phương diện quan điểm tư duy lý luận. Thật vậy, tuy chưa
phải là mọi vấn đề cơ bản về cổ phần hóa đã được giải quyết, song đã
bước đầu có được một số kết luận quan trọng từ những nghiên cứu lý luận
và thực tiễn để làm cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình thực hiện cổ phần
hóa. Hai trong số những vấn đề có ý nghĩa then chốt nhất là:
- Dưới góc độ của kinh tế thị trường, cổ
phần hóa không phải là tư nhân hóa. Về điều này, sự phân tích về tính
chất xã hội hóa của hình thái cổ phần so với các hình thái công ty khác ở
phần trên đã rất rõ. Điều còn “chưa hoàn toàn rõ” ở đây chỉ là tương
quan giữa hình thái cổ phần và doanh nghiệp quốc doanh, mà cụ thể là,
liệu rằng việc chuyển một phần các doanh nghiệp quốc doanh sang dạng
công ty cổ phần có làm cho tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế bị
suy yếu đi không? Trong vấn đề này, ít nhất có một điều đã rõ là, không
phải tỷ lệ kinh tế thuộc doanh nghiệp quốc doanh càng lớn về mặt lượng
thì tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế càng cao. Đây là một sự
nhầm lẫn về nhận thức đã được thực tiễn lịch sử kiểm chứng và xác nhận.
Kết luận rút ra từ đây là, chưa có căn cứ xác đáng để khẳng định rằng,
giảm bớt số lượng doanh nghiệp quốc doanh, trong đó có việc cổ phần hóa
một số bộ phận của chúng thì tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
sẽ bị xói mòn. Song, thách thức về mặt lý luận lại là ở chỗ, cổ phần hóa
một bộ phận doanh nghiệp quốc doanh sẽ có tác động ảnh hưởng gì đến
tính chất xã hội chủ nghĩa (hay chính xác hơn là tính chất định hướng xã
hội chủ nghĩa), trong đó, điều đáng được kỳ vọng hơn cả là quá trình
này chẳng những sẽ không làm cho tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế bị suy yếu đi, mà trái lại, có thể còn nâng cao hơn so với hiện
trạng được không? Chúng tôi nghĩ rằng, câu trả lời sẽ tuỳ thuộc vào cách
tiếp cận hay chỗ đứng để giải quyết vấn đề. Mặc dù, cùng xuất phát từ
một điểm chung: tính chất xã hội hóa của sản xuất mâu thuẫn với chế độ
sở hữu tư nhân, nhưng ở đây có hai cách tiếp cận khác nhau, một là từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung (trước đây), và hai là từ kinh tế thị trường
(hiện đại).
- Theo quan niệm “truyền thống” của cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp quốc doanh được coi là hình
thức mang tính chất xã hội hóa trực tiếp và cao nhất, bởi nó được nhà
nước nhân danh toàn xã hội mà lập ra. Trước đây, quan niệm này không
chấp nhận kinh tế thị trường nên cũng vì thế mà không chấp nhận các dạng
thức xã hội hóa khác nhau của kinh tế thị trường. Thành ra, doanh
nghiệp quốc doanh đã trở thành hình thái độc quyền biểu thị tính chất xã
hội hóa của sản xuất, là hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, (còn hợp tác xã
thì chỉ là xã hội chủ nghĩa có một nửa). Từ đó, dẫn đến sự chỉ đạo về
mặt chính sách là bằng mọi cách, làm cho kinh tế quốc doanh càng chiếm
tỷ trọng cao càng tốt với điều tâm niệm rằng: doanh nghiệp quốc doanh
chính là hiện thân của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nghĩa là càng
nhiều doanh nghiệp quốc doanh thì càng có nhiều chủ nghĩa xã hội. Chính
cách hiểu này đã khiến cho có thời kỳ quá trình quốc doanh hóa trở thành
xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế, và như đã nói, đã bị thực tiễn bác
bỏ.
- Ngược lại, nếu đứng từ góc độ của kinh
tế thị trường, như đã trình bày ở phần trên, cả trên phương diện lô-gíc
lẫn lịch sử, hình thái cổ phần chính là một hình thái biểu hiện tính
chất xã hội hóa sản xuất cao nhất, và tính hiệu quả của nó cũng đã được
thử thách qua thời gian với độ dài tính bằng thế kỷ. Và theo lô-gíc,
không thể chuyển sang kinh tế thị trường mà lại không chấp nhận hình
thức tổ chức kinh tế chủ yếu đã tạo ra chính bản thân nó.
Vì thế, chúng ta có thể đi đến nhận xét
rằng: nếu đứng từ góc độ của kinh tế kế hoạch hóa tập trung mà cho rằng,
cổ phần hóa một bộ phận các doanh nghiệp quốc doanh là một quá trình tư
nhân hóa, rằng vì thế mà tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế bị
xói mòn, thì ngay cả khi đó là một kết luận hợp lô-gíc đi nữa, nó cũng
đã trở nên không còn giá trị phương pháp luận, một khi bản thân cơ chế
kinh tế đó đã phải thay đổi để chuyển sang một cơ chế kinh tế khác.
Huống chi, theo lô-gíc của cơ chế kinh tế thị trường thay thế nó, cổ
phần hóa không phải là tư nhân hóa, mà là hình thái tổ chức sản xuất
mang tính chất xã hội hóa cao nhất, đối lập với kinh tế tư nhân.
Rõ ràng là không thể chối bỏ được những
lý do chính đáng khi đặt vấn đề xem xét lại một cách nghiêm túc vai trò
của các doanh nghiệp quốc doanh, bởi tính chất xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế chỉ có thể trông cậy vào những doanh nghiệp quốc doanh có hiệu
quả cao hoặc bất khả thay thế chứ không phải vào bất kỳ mọi doanh nghiệp
nào mang danh doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế, chúng tôi chia sẻ quan
điểm cho rằng không nên đặt vấn đề: làm thế nào để mở rộng các doanh
nghiệp quốc doanh (hay doanh nghiệp nhà nước), mà phải là: làm thế nào
để tăng cường (nâng cao) sức mạnh kinh tế của Nhà nước. Sở dĩ như vậy là
vì, bản thân các doanh nghiệp nhà nước chỉ là một trong số nhiều công
cụ khác nhau trong tay Nhà nước để điều hành nền kinh tế theo ý chí của
mình chứ không phải là một công cụ duy nhất hay có khả năng thay thế cho
tất cả mọi loại công cụ khác. Trong điều kiện của kinh tế thị trường,
để điều hành nền kinh tế, ngoài cách thông qua các doanh nghiệp nhà
nước, Nhà nước còn dùng (và chủ yếu là dùng) các loại công cụ khác như
hệ thống luật, các chính sách kinh tế vĩ mô, bộ máy quản lý hành chính
về kinh tế, v.v.. Để có khả năng hướng nền kinh tế đi theo những mục
tiêu đã định, Nhà nước rất cần có thực lực sức mạnh kinh tế của mình. Để
tăng cường sức mạnh kinh tế của mình, việc sử dụng các công cụ với tư
cách của cả hệ thống đồng bộ và nhất quán chắc chắn sẽ có kết quả tốt
hơn so với việc chỉ dựa vào việc đề cao một loại công cụ nhất định. Đặc
biệt là trong trường hợp sử dụng các doanh nghiệp nhà nước, khi mà việc
gia tăng số lượng loại công cụ này chưa hẳn đã làm cho chính nó mạnh
hơn. Ấy là chưa kể tới việc không hiếm khi những nỗ lực mở rộng khu vực
kinh tế này đã lấy đi mất quá nhiều nguồn lực có hạn của quốc gia mà lẽ
ra có thể dành cho việc cải thiện sức mạnh kinh tế của Nhà nước theo
quan điểm hệ thống và xét từ góc độ hiệu quả.
Tóm lại, cần phân biệt sự khác nhau giữa
doanh nghiệp nhà nước với sức mạnh kinh tế của Nhà nước. Trong đó, cái
cần tăng cường để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế là sức mạnh kinh tế của Nhà nước được nhìn nhận một cách tổng
thể chứ không phải chỉ là bộ phận công cụ các doanh nghiệp nhà nước được
nhìn nhận một cách cục bộ. Nói cách khác, trong việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước tự bản
thân nó chỉ là công cụ (phương tiện) chứ không phải là mục đích. Do
vậy, sự thể hiện trong hành động chính sách sẽ là không hợp lý khi lấy
cái này thay thế cho cái kia.
- Với tư cách đặt vấn đề như vậy, rõ ràng
việc tinh gọn hơn về số lượng và nâng cao hiệu quả kinh doanh trở thành
nội dung chính của cuộc cải cách các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
hiện nay. Cổ phần hóa là một trong số nhiều biện pháp để thực hiện mục
tiêu này. Đây cũng là điều đã được khẳng định trong các Nghị quyết Đại
hội của Đảng.
Như vậy, về phương diện học thuật, hoàn
toàn có thể khẳng định rằng, trên quan điểm của kinh tế thị trường, việc
cổ phần hóa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa như là một trong những biểu
hiện bằng hành động thực tiễn của sự nhận thức lại về bản chất của tính
chất xã hội hóa của sản xuất; rằng đó là quá trình chuyển đổi hình thức
xã hội hóa sản xuất từ dạng doanh nghiệp quốc doanh trong khuôn khổ của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang dạng công ty cổ phần (trong đó có
loại tuyệt đối 100% cổ phần của Nhà nước) thích hợp với khuôn khổ của
kinh tế thị trường.
Vậy thì vấn đề còn lại của việc tiến hành
cổ phần hóa chủ yếu sẽ là những biện pháp mang tính chất kinh tế – kỹ
thuật, và với những kinh nghiệm đã có, với quyết tâm chính trị cao của
Đảng và Chính phủ, tiến trình cổ phần hóa trong những năm sắp tới nhất
định sẽ đạt được kết quả như mong đợi, đặc biệt là khi có sự hỗ trợ
không thể thiếu của một số giải pháp cụ thể sau:
- Cần phải làm cho đông đảo công chúng
hiểu rõ rằng, vì hình thái cổ phần là một hình thái tổ chức sản xuất phổ
biến trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nên trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, vấn đề cổ phần hóa không nên chỉ
bó hẹp trong quan niệm như là “một trong những phương tiện quan trọng để
cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước”. Không phải là chia các doanh nghiệp
nhà nước hiện có ra làm mấy loại, trong đó loại thì bị đem ra “cổ phần
hóa”, loại thì được giữ lại là doanh nghiệp nhà nước như cũ. Cổ phần hóa
là quá trình chuyển đổi chế độ kinh doanh của nền sản xuất được xã hội
hóa từ dạng thức doanh nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) hiểu
theo nghĩa của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang dạng
thức công ty cổ phần thích hợp với cơ chế thị trường. Cổ phần hóa không
phải là một phong trào hay chiến dịch làm một lần là xong. Có lẽ chỉ trừ
một số rất ít trường hợp, còn lại nói chung có thể có rất nhiều doanh
nghiệp nhà nước (hiểu theo nghĩa 100% cổ phần do nhà nước nắm giữ) vẫn
có thể thực hiện “cổ phần hóa” rộng rãi trong công chúng trong tương lai
khi có điều kiện thích hợp. Đồng thời ngược lại, cũng có thể có những
công ty cổ phần được nhà nước mua lại toàn bộ số cổ phần trong những
trường hợp cần thiết phải làm như vậy.
- Vì các doanh nghiệp nhà nước vốn từ đầu
đã thuộc sở hữu toàn dân nên rất cần công khai hóa các thông tin kinh
tế cần thiết về các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, không những chỉ
với những người làm việc trong các doanh nghiệp đó mà với toàn xã hội.
- Đứng trước thách thức và cơ hội của hội
nhập kinh tế quốc tế, sự vận hành của cơ chế thị trường đòi hỏi các
doanh nghiệp phải theo kịp tiến trình hội nhập. Do vậy, cần phải quy
định bắt buộc tất cả các doanh nghiệp nhà nước (kể cả cổ phần hóa lẫn
không cổ phần hóa) phải tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tính cần thiết của quy định này dựa trên các ưu điểm cụ thể của thị
trường chứng khoán, mà đại thể là:
+ Thị trường chứng khoán là một kênh thu
hút vốn quan trọng từ xã hội để đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng hiện đang rất
thiếu vốn, đặc biệt là đứng trước nhu cầu đầu tư để hiện đại hóa công
nghệ sản xuất, cần phải và không nên bỏ qua kênh tạo vốn ngày càng có ý
nghĩa quan trọng này.
+ Thị trường chứng khoán là loại hình thị
trường phổ biến và có ý nghĩa như một trong những chỉ số quan trọng
biểu thị mức độ phát triển của bất kỳ nền kinh tế thị trường nào. Vì
vậy, cùng với quá trình hội nhập, hình thái buôn bán trên thị trường
chứng khoán cũng sẽ trở nên phổ cập ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nhà
nước với tư cách là bộ phận giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, không
thể không trở thành lực lượng đi tiên phong trong việc góp phần tạo ra
thị trường chứng khoán bằng cách trực tiếp tham gia vào hoạt động của
thị trường này. Tính chất chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước không phải
là ở chỗ chiếm tỷ trọng lớn, mà quan trọng nhất là ở tính hiệu quả, ở
khả năng dẫn dắt đổi mới công nghệ và cách thức hoạt động, ở khả năng ổn
định và trong bối cảnh của đổi mới, là ở khả năng đóng góp vào việc tạo
ra “sự đồng bộ của cơ chế thị trường” ở Việt Nam.
+ Về phía mình, thị trường chứng khoán
chỉ có thể phát triển và hoàn thành tốt vai trò kênh thu hút vốn, là nơi
kinh doanh, giao dịch vốn (chứng khoán) khi các công ty lớn của quốc
gia thật sự là những người tham gia chính.
Với các lý do trên, thiết nghĩ, đã đến
lúc phải coi đây như một giải pháp mang tính đột phá mạnh, và vì vậy,
cần có một quy định pháp lý đủ mạnh, bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước
(cả doanh nghiệp cổ phần hóa lẫn không cổ phần hóa) phải niêm yết trên
thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, vì việc tham gia thị trường chứng
khoán cần một khoảng thời gian nhất định để chuẩn bị chu đáo, nên thời
gian từ lúc ban hành quy định đến thời hiệu quy định bắt đầu có hiệu lực
nên kéo dài hơn so với các quy định khác: có thể là 1 năm, thậm chí là 3
năm. Nhưng vấn đề cấp thiết hiện nay là cần khẳng định nguyên tắc các
doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán và công bố công khai lịch
trình thực hiện.
Nguồn: Tạp chí Lý luận Chính trị số 1-2/2007
* Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.(1),(3),(5) Năm 2010: Mục tiêu sẽ cổ phần hóa hơn 1.500 doanh nghiệp. Nguồn: http://www.dangcongsan.vn/; ngày 10-10-2006.
(2),(4) Tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp Việt Nam còn chậm, chưa đạt yêu cầu. http://www.dangcongsan.vn/details; ngày 21-9-2006.
(6) Chính sách mới về cổ phần hóa: Đột phá. VietNamNet ngày 7-10-2006.
(7) Doanh nghiệp nhà nước: Không thể chủ đạo bằng cách giữ nhiều vốn. VietNamNet, ngày 22-9-2006.
(8) VietNamNet ngày 20-8-2004.
(9) Xin xem thêm về vấn đề này qua các bài viết sau của tác giả:
- Bùi Tất Thắng: Khía cạnh Kinh tế chính trị của vấn đề cổ phần hóa. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1 (21), tháng 1-1993.
- Bùi Tất Thắng: Hình thái cổ phần và vấn đề cổ phần hóa ở nước ta hiện nay. Tạp chí Thông tin lý luận, số 12 (238), tháng 12-1997.
- Kiều Anh: Liệu có nên buộc các doanh nghiệp nhà nước niêm yết trên thị trường chứng khoán? Nhà quản lý, số 22 (tháng 4-2005).
(10), (11) C.Mác: Tư bản, tập 3, q.3. Phần 2. Nxb Tiến bộ Matxcơva., – Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987; tr.547.
(12),(13),(14),(15) C.Mác: Tư bản, tập 3, q.3. Phần 1. Nxb Tiến bộ Matxcơva., – Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986; tr.534, 535, 537, 536.
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 6 NĂM 2007
0 comments:
Post a Comment