THS. TRẦN ANH TUẤN – Giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự – Đại học Luật Hà Nội
Trong công cuộc cải
cách tư pháp và thủ tục tố tụng hiện nay, việc xây dựng thủ tục áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự, phải đáp
ứng được hai đòi hỏi cơ bản của thực tiễn giải quyết tranh chấp là tính
nhanh chóng và sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự trong
việc bảo vệ quyền lợi của họ. Chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm
thời đã được xây dựng tại Chương thứ 8 Dự thảo 11 Bộ luật tố tụng dân sự
Việt Nam (BLTTDSVN), bao gồm 28 điều luật (từ điều 98-125). Tuy nhiên
các quy định tại Dự thảo này cũng đặt ra nhiều vấn đề mà chúng ta cần
giải quyết:
1. Về phạm vi áp dụng
- Điểm tiến bộ của Dự thảo 11 BLTTDS Việt Nam là đã
mở rộng phạm vi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cụ thể là thủ
tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trước
khi khởi kiện vụ án hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (K2 Điều 98
DTBLTTDSVN ). Tuy nhiên nếu so sánh với các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự (BLTTDS) Pháp 1807 thì có hạn chế là các quy định này chỉ áp
dụng đối với những yêu cầu khẩn cấp nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ kiện
chính, ngược lại theo BLTTDS Pháp 1807 thủ tục xét xử cấp thẩm cũng có
thể áp dụng một cách độc lập mà không phụ thuộc vào vụ kiện chính. Hiện
nay các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong DTBLTTDSVN thì
hầu hết là những biện pháp nhằm đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án
trong vụ kiện chính. Tuy nhiên Khoản12, Khoản13 Điều 101 Dự thảo cho
phép Thẩm phán “ Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định” và
áp dụng “ Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy
định”. Chúng tôi cho rằng để đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, trên cơ
sở các quy định này các nhà lập pháp Việt Nam có thể phát triển, bổ
sung theo hướng cho phép Thẩm phán trong trường hợp khẩn cấp có thể áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của
đương sự ngay cả khi giữa các đương sự không có tranh chấp về vụ kiện
chính hoặc có tranh chấp về vụ kiện chính nhưng các bên không có yêu cầu
khởi kiện giải quyết tranh chấp này.
Trong thực tiễn tố tụng của Việt Nam cũng xuất hiện
không ít những trường hợp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình hoặc
tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra đương sự chỉ yêu cầu Toà án áp
dụng ngay lập tức các biện pháp cần thiết mà không khởi kiện về vụ kiện
chính bởi giữa họ không có tranh chấp nào khác hoặc có tranh chấp về vụ
kiện chính nhưng sau khi Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp các bên
đã tự giải quyết được.Chẳng hạn:
- Yêu cầu tạm thời mở rạp hát để công diễn trong trường hợp có sự tranh chấp giữa chủ rạp và người tổ chức;
- Chủ sở hữu căn nhà yêu cầu Toà án ra quyết định
buộc bị đơn phải tháo gỡ một biển quảng cáo được gắn vào nhà mình một
cách bất hợp pháp;
- Yêu cầu cưỡng chế người thuê nhà ra khỏi ngôi nhà
đã xuống cấp có nguy cơ bị sụp đổ, buộc người thuê nhà phải chấm dứt
hành vi xây dựng trái phép khi không có sự đồng ý của chủ nhà;
- Yêu cầu Toà án ra quyết định cấm phát hành các ấn phẩm xâm phạm đến đời tư của cá nhân;
- Yêu cầu buộc chủ sở hữu bất động sản liền kề tạm thời cho mở đường thoát nước;
- Yêu cầu buộc chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng có nguy cơ sụp đổ phải chặt cây, phá dỡ;
- Yêu cầu buộc những người đình công chiếm giữ công sở phải giải tán;
- Yêu cầu trục xuất những người chiếm hữu nhà một cách rõ ràng bất hợp pháp …
Đối với những loại việc nêu trên nếu giải quyết theo
thủ tục xét xử sơ thẩm thông thường là không phù hợp vì bản chất của
loại việc đòi hỏi phải giải quyết khẩn cấp. Mặt khác cũng không thể coi
đây là loại việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm
bảo cho vụ kiện chính. Thiết nghĩ đối với những loại việc này cần phải
xây dựng một thủ tục tố tụng riêng cho phù hợp.
Theo Khoản 1 Điểm a Điều 120 Dự thảo, nếu biện pháp
khẩn cấp tạm thời được áp dụng trước khi người yêu cầu khởi kiện vụ án
mà hết thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày Toà án ra quyết định áp dụng
người yêu cầu đã không khởi kiện vụ án tại Toà án thì biện pháp khẩn
cấp tạm thời này bị huỷ bỏ. Quy định này rõ ràng đã hạn chế phạm vi áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng cách buộc người yêu cầu phải khởi
kiện vụ kiện chính và như vậy không thể đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn giải quyết tranh chấp hiện nay. Từ những lập luận trên chúng
tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 98 Dự thảo như sau:
Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo
vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn ảnh hưởng xấu đến đời sống, hoạt động kinh
doanh hoặc bảo đảm việc thi hành án, thì cá nhân, tổ chức có liên quan
có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tương ứng quy
định tại Điều 101 của Bộ luật này trước khi khởi kiện vụ án tại Toà án.
Các đương sự cũng có quyền yêu cầu Toà án quyết định các biện pháp khẩn
cấp độc lập với vụ tranh chấp.
Nếu như chấp nhận việc sửa đổi Khoản 2 Điều 98 Dự
thảo theo hướng các đương sự có quyền yêu cầu Toà án quyết định các biện
pháp khẩn cấp độc lập với vụ kiện chính thì một vấn đề đặt ra mà chúng
ta cần phải xem xét là phải xây dựng một cơ chế để người bị áp dụng các
biện pháp này có thể tự bảo vệ mình, tránh những bất lợi do việc áp dụng
không đúng các biện pháp khẩn cấp gây phương hại cho lợi ích chính đáng
của họ.
Theo chúng tôi, các quy định về việc giải quyết khiếu
nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo các Điều 123, Điều 124 Dự thảo 11 BLTTDSVN là phù hợp với các
biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án
đối với vụ kiện chính. Tuy nhiên, các quy định này sẽ không hợp lý khi
áp dụng đối với các quyết định khẩn cấp tạm thời được áp dụng một cách
độc lập mà các bên không khởi kiện vụ kiện chính. Do vậy cần thiết phải
bổ sung quy định về quyền kháng cáo của các đương sự đối với các quyết
định khẩn cấp tạm thời được áp dụng độc lập và cơ chế để giải quyết các
quyết định này ở Toà án cấp phúc thẩm. Thiết nghĩ bản chất của loại việc
là khẩn cấp do vậy cần phải có những quy định mềm dẻo,linh hoạt hơn so
với các quy định về việc giải quyết kháng cáo đối với các bản án sơ thẩm
xử về nội dung của vụ tranh chấp. Theo chúng tôi có thể vận dụng các
quy định về thủ tục phúc thẩm các quyết định của Toà án sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị theo Điều 282 DTBLTTDSVN đối với loại quyết định khẩn
cấp tạm thời này. Rất tiếc rằng, Dự thảo 11 BLTTDSVN không có sự phân
biệt về thời hạn giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với các bản án sơ
thẩm và các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
như trong các Pháp lệnh về thủ tục tố tụng trước đó. Việc quy định một
thời hạn chung cho việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án
sơ thẩm và quyết định của Toà án cấp sơ thẩm như Điều 260 Dự thảo 11
BLTTDSVN là không phù hợp với bản chất của từng loại việc. Theo chúng
tôi cần sửa đổi bổ sung Điều 260 Dự thảo theo hướng việc giải quyết theo
thủ tục phúc thẩm các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án cấp sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm sẽ được tiến hành trong một thời
hạn tối đa là 1 tháng kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm thụ lý vụ việc .
- Khoản 13 Điều 101 quy định Toà án có quyền áp dụng
“các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định”. Đây là
một quy định mềm dẻo nhằm tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền sẽ ra
những văn bản hướng dẫn áp dụng đối với những loại việc mới phát sinh.
Song một vấn đề đặt ra trong thực tiễn giải quyết là nếu trong trường
hợp Toà án đang giải quyết vụ án mà thấy rằng cần phải áp dụng những
biện pháp cần thiết để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án và thi hành án
nhưng pháp luật chưa có quy định về loại biện pháp này thì Toà án có thể
ra quyết định áp dụng hay không? Do vậy chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ
sung quy định tại Khoản 13 Điều 101 Dự thảo theo hướng sau đây:
Toà án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác mà pháp luật có quy định. Để đảm bảo việc xét xử và thi hành
án, nếu xét thấy cần thiết phải áp dụng ngay các biện pháp khẩn cấp mà
pháp luật chưa có quy định về biện pháp này thì Toà án có quyền áp dụng
nếu không trái với các quy định của Bộ luật này
- Về quy định tại Khoản 1 Điều 101 và Điều 102 Dự thảo:
Hiện nay theo Khoản 1 Điều 101 và Điều 102 chỉ đề cập
tới các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng với những người chưa thành
niên mà không đề cập tới biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với
người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức và làm chủ hành vi của mình. Để đáp ứng những đòi hỏi từ thực tiễn
giải quyết tranh chấp, chúng tôi cho rằng cần thiết phải mở rộng phạm vi
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với cả người mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành
vi của mình. Từ những nhận định trên chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ
sung quy định tại Điều 101 và Điều 102 Dự thảo theo hướng sau đây:
Giao người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình cho cá nhân hoặc
tổ chức trông nom, nuôi dưỡng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến
họ mà chưa có người giám hộ.
- Về quy định tại Điều 108 và Điều 110 Dự thảo:
Hiện tại theo quy định tại Điều 108 Toà án có thể áp
dụng biện pháp cấm chuyển dịch nếu tài sản đang tranh chấp là bất động
sản hoặc các tài sản phải đăng ký tại các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Người đang giữ tài sản bị cấm chuyển dịch có thể được tiếp tục
giữ những tài sản này. Tuy nhiên, Dự thảo BLTTDSVN hiện nay lại thiếu
vắng các quy định về việc khai thác công dụng của tài sản bị cấm chuyển
dịch và quản lý các lợi ích thu được từ việc khai thác tài sản này đem
lại. Đây là một lỗ hổng của pháp luật mà người đang chiếm giữ tài sản có
thể lợi dụng để thu lợi gây thiệt hại đến lợi ích chính đáng của người
có yêu cầu. Chẳng hạn trong trường hợp các bên có tranh chấp về quyền sở
hữu một căn nhà đang cho thuê hoặc một khách sạn, nhà nghỉ đang được
khai thác, sử dụng… Có thể thấy rằng biện pháp cấm chuyển dịch tài sản
đang tranh chấp là nhằm đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án nhưng
không thể không tính đến việc khai thác lợi ích của tài sản và đảm bảo
lợi ích chính đáng của các bên. Từ những lập luận trên chúng tôi kiến
nghị bổ sung vào Dự thảo BLTTDSVN một quy định sau đây:
Trong trường hợp cấm chuyển dịch tài sản đang tranh
chấp, tuỳ trường hợp Toà án có thể quyết định giao tài sản đó cho một
bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý và tiếp tục khai thác lợi ích của
tài sản. Khoản tiền thu được từ việc khai thác tài sản ấy sau khi đã
trừ đi các chi phí cần thiết, người được giao quản lý, khai thác lợi ích
của tài sản phải giao nộp cho Toà án. Toà án sẽ gửi số tiền này vào một
tài khoản phong toả tại Ngân hàng cho đến khi có quyết định mới của Toà
án.
2. Về các quy định liên quan đến tính khẩn cấp của các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Tính khẩn cấp của việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong nhiều trường hợp đòi hỏi Toà án phải áp dụng ngay lập
tức các biện pháp cần thiết. Tuy nhiên nhiều quy định trong Dự thảo hiện
nay đã không đáp ứng được đòi hỏi về tính khẩn cấp của các biện pháp
cần áp dụng và việc vận dụng trong thực tế trong nhiều trường hợp là quá
muộn, tiềm ẩn một nguy cơ gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của đương
sự:
- Theo Khoản 2 Điều 116 Dự thảo nếu yêu cầu áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện trước khi người yêu cầu
khởi kiện vụ án thì Thẩm phán phải xem xét để quyết định áp dụng trong
thời hạn tối đa là 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu. Theo
chúng tôi quy định này là không phù hợp, nhất là đối với những yêu cầu
áp dụng biện pháp phong toả tài khoản tại Ngân hàng (Điều 111), phong
toả tài sản ở nơi gửi giữ (Điều 112), phong toả tài sản của người có
nghĩa vụ (Điều 113) hoặc kê biên tài sản đang tranh chấp (Điều 107).
Việc chậm trễ trong việc áp dụng các biện pháp này dù chỉ là trong một
thời gian hết sức ngắn cũng đủ để bên bị yêu cầu áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời “làm động tác”rút toàn bộ tiền từ tài khoản hoặc tẩu
tán tài sản. Với những nhận định trên chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ
sung Khoản 2 Điều 116 Dự thảo theo hướng:
Trong trường hợp cấp bách kể cả ngày lễ, ngày nghỉ
đương sự có thể yêu cầu Toà án áp dụng ngay các biện pháp khẩn cấp cần
thiết. Nếu xét thấy yêu cầu của đương sự là thật sự cấp bách Thẩm phán
có thể ngay lập tức quyết định các biện pháp cần thiết.
Tuy nhiên để thực hiện được điều này không thể không
tính đến tính thực tế của nó vì đôi khi phải thay đổi cả một lề lối làm
việc. Do vậy nếu như bổ sung quy định này vào Dự thảo thì trong thực
tiễn chúng ta phải xây dựng được một cơ chế đảm bảo. Có nghĩa là phải có
những Thẩm phán trực vào các ngày nghỉ, ngày lễ.
- Hiện nay theo quy định tại các Điều 107, 108, 109
Dự thảo thì các biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản đang tranh
chấp, cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng
đang tranh chấp, chỉ được áp dụng khi người bị yêu cầu áp dụng đã “…có
hành vi tẩu tán tài sản”, “… có hành vi chuyển dịch quyền sở hữu tài
sản” hoặc “…có hành vi tháo gỡ, lắp ghép…”. Chúng tôi cho rằng việc quy
định Toà án chỉ có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các
Điều 107, 108, 109 khi người bị yêu cầu có những hành vi nói trên là
không hợp lý nếu không muốn nói là quá muộn trong việc bảo vệ lợi ích
của đương sự hoặc đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án. Do vậy chúng
tôi kiến nghị sửa đổi các Điều 107, 108, 109 theo hướng sau đây:
Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu
trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần phải ngăn chặn
người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán tài sản.
Cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp được áp dụng
nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần phải ngăn
chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi
chuyển dịch quyền sở hữu tài sản cho người khác.
Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp được
áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần phải
ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành
vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi
hiện trạng tài sản đó.
- Về việc cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi theo Điều 114 Dự thảo:
Cũng với những lập luận trên, chúng tôi cho rằng sẽ
là hợp lý hơn nếu như cho phép Toà án có thể áp dụng các biện pháp cấm
hoặc buộc đương sự phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm ngăn chặn
những hậu quả xấu sẽ xảy ra trong tương lai. Do vậy chúng tôi kiến nghị
sửa đổi Điều 114 Dự thảo theo hướng sau đây:
Việc cấm hoặc buộc đương sự phải thực hiện những hành
vi nhất định sẽ được áp dụng trong trường hợp việc thực hiện hoặc không
thực hiện một số hành vi nhất định đã hoặc sẽ làm ảnh hưởng đến việc
giải quyết vụ án hoặc lợi ích hợp pháp của những người có liên quan
trong vụ án.
3. Về căn cứ huỷ bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Điều 120 Dự thảo BLTTDSVN còn chứa đựng một điểm
bất hợp lý cần sửa đổi. Cần phải thấy rằng ngay cả khi thủ tục áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được áp dụng nhằm đảm bảo cho việc
giải quyết vụ kiện chính thì việc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không khởi kiện vụ án cũng không thể dẫn tới hậu quả huỷ bỏ
quyết định này đối với các biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính tạm
ứng trước được quy định tại các Khoản 2, 3, 4 Điều 101 Dự thảo nếu như
người bị áp dụng đã thi hành quyết định. Trong trường hợp này nếu người
bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không có khiếu nại và nguyên đơn
không khởi kiện vụ án thì có thể coi rằng vụ việc tranh chấp giữa các
bên đã được giải quyết một cách nhanh chóng. Đối với các biện pháp khẩn
cấp tạm thời nhằm đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án tại các Khoản
5, 6, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 101 Dự thảo nếu người yêu cầu áp dụng các
biện pháp này không khởi kiện vụ án thì việc huỷ bỏ quyết định áp dụng
các biện pháp này là cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị
áp dụng. Từ những lập luận trên chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 120 Dự thảo theo hướng sau:
Toà án ra ngay quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trước khi
người yêu cầu khởi kiện vụ án theo quy định tại các Khoản 1, 5, 6, 7, 8,
9, 10 Điều 101 mà hết thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày Toà án ra
quyết định áp dụng người yêu cầu đã không khởi kiện vụ án tại Toà án,
trừ những trường hợp Toà án quyết định các biện pháp khẩn cấp tạm thời
độc lập;
- Biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trước khi
người yêu cầu khởi kiện vụ án theo quy định tại các Khoản 2, 3, 4 Điều
101 mà hết thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày Toà án ra quyết định áp
dụng người yêu cầu đã không khởi kiện vụ án tại Toà án và người bị áp
dụng cũng chưa thi hành quyết định, trừ những trường hợp Toà án quyết
định các biện pháp khẩn cấp tạm thời độc lập;
- Xét về mặt thực tế nếu như sau khi ra quyết định áp
dụng biên pháp khẩn cấp tạm thời nếu quyết định của Thẩm phán là có sai
lầm hoặc không đúng pháp luật mà không cần thiết phải thay thế bằng một
biện pháp khẩn cấp tạm thời khác thì để đảm bảo quyền lợi chính đáng
của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Toà án phải huỷ bỏ
quyết định đã áp dụng. Tuy nhiên Điều 120 Dự thảo hiện nay lại không đề
cập đến trường hợp này. Do vậy, chúng tôi kiến nghị bổ sung Điều 120 Dự
thảo một căn cứ huỷ bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là
trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có sai lầm
hoặc không đúng pháp luật mà không cần thiết phải thay thế bằng một biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác.
4. Về các quy định nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Hiện nay theo quy định Điều 101 Dự thảo để đảm bảo
việc xét xử và thi hành án Toà án có thể áp dụng các biện pháp như kê
biên tài sản đang tranh chấp, cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp,
cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, phong toả tài khoản tại
Ngân hàng, phong toả tài sản ở nơi gửi giữ, phong toả của người có
nghĩa vụ. Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời này và ngăn ngừa sự lạm dụng từ phía người có quyền
yêu cầu các nhà lập pháp đã đưa vào trong Dự thảo những quy định về biện
pháp bảo đảm buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ trị
giá bằng tiền vào một tài khoản phong toả tại Ngân hàng. Đây là một điểm
tiến bộ của Dự thảo 11 so với các văn bản pháp luật trước đó. Tuy
nhiên, một vấn đề đặt ra là nếu Toà án áp dụng biện pháp phong toả tài
sản của người có nghĩa vụ (Điều 113) thì đương nhiên người có nghĩa vụ
sẽ không thể chuyển dịch những tài sản bị phong toả mặc dù đây không
phải là những tài sản đang tranh chấp. Nếu tài sản bị phong toả là bất
động sản mà giá nhà đất biến động theo chiều hướng giảm thì về nguyên
tắc theo quy định tại Điều 99 người yêu cầu áp dụng biện pháp này sẽ
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Xét về mặt thực tế người bị áp
dụng biện pháp phong toả này sẽ khó có thể nhận được khoản tiền bồi
thường nếu người yêu cầu áp dụng biện pháp này không có tài sản để thi
hành khi thi hành án. Vậy các nhà làm luật phải tìm ra một giải pháp nào
đó để có thể xử lý được vấn đề này? Theo chúng tôi để tránh những thiệt
hại không đáng có và không làm phức tạp thêm việc giải quyết tranh
chấp, các nhà làm luật nên mở cho người bị áp dụng biện pháp này một con
đường để tự cứu lấy mình, tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa họ và
người yêu cầu áp dụng biện pháp phong toả tài sản của họ. Cụ thể là cho
phép người bị áp dụng biện pháp phong toả này có thể gửi một khoản tiền
hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ trị giá bằng tiền tương đương
với nghĩa vụ họ phải thực hiện vào một tài khoản phong toả tại một Ngân
hàng để thay thế cho biện pháp phong toả bất động sản nhằm đảm bảo cho
nghĩa vụ thanh toán. Từ những lập luận trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi
Điều 121 Dự thảo theo hướng bổ sung một quy định sau đây:
Người bị áp dụng biện pháp phong toả tài sản theo quy
định tại Khoản 11 Điều 101 thuộc Bộ luật này, có thể gửi một khoản tiền
hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền tương
ứng với nghĩa vụ họ phải thực hiện để thay thế cho biện pháp khẩn cấp mà
Toà án đã áp dụng.
- Điều 99 Dự thảo có đề cập tới trách nhiệm của người
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng và gây thiệt hại
mà không đề cập tới trách nhiệm của Toà án trong trường hợp Thẩm phán
có lỗi trong việc ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng và gây thiệt hại. Hiện nay Dự thảo cũng không đề cập tới
trách nhiệm của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân trong trường hợp Toà án
tự mình hoặc Viện kiểm sát kiến nghị Toà án ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quyết định khẩn cấp tạm thời
không đúng và gây thiệt hại. Do vậy chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Điều 99 Dự thảo theo hướng quy định của trách nhiệm của Toà án và Viện
kiểm sát trong trường hợp việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng và gây thiệt hại.
5. Về các quy định có liên quan đến việc thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
- Khoản 2 Điều 122 có đề cập tới việc gửi quyết định
cho cá nhân, tổ chức có liên quan mà không đề cập tới việc gửi quyết
định khẩn cấp tạm thời cho Cơ quan thi hành án trong khi đó đây lại là
một vấn đề rất quan trọng. Do đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Khoản 2 Điều 122 như sau:
Toà án, cấp hoặc gửi ngay quyết định áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi ra quyết định cho
người có yêu cầu, người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cá nhân,
tổ chức có liên quan, Cơ quan thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp.
Người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cá nhân, tổ chức có liên
quan phải lập tức thi hành khi nhận được quyết định này.
- Việc thi hành ngay lập tức các quyết định khẩn cấp
tạm thời có một ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền lợi
hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 122 mới chỉ dừng lại ở
việc quy định hiệu lực thi hành ngay của biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
chưa quy định một cơ chế cụ thể để thực hiện. Sự chậm trễ trong việc thi
hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể dẫn tới
những hậu quả khôn lường. Do vậy việc quy định về vai trò chủ động của
người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như sự phối
hợp kịp thời giữa Toà án và Cơ quan thi hành án là hết sức cần thiết. Vì
lẽ đó chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 122 Dự thảo như
sau:
Khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có quyền
yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành. Khi nhận
được yêu cầu thi hành của người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời kèm theo bản quyết định của Toà án hoặc nhận được quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Toà án chuyển giao, Thủ trưởng Cơ
quan thi hành án phải lập tức ra quyết định thi hành.
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC, SỐ ĐẶC SAN GÓP Ý DỰ THẢO BỘ LUẬT TÔ TỤNG DÂN SỰ, THÁNG 4.2004



6:38 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment