CAO VIỆT THĂNG – Viện Nhà nước và Pháp luật, Trung Tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia
Trong Dự án Luật sửa
đổi một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự, mới đây Tòa án nhân dân tối
cao đã đề xuất cho phép được xét xử theo án lệ, nhưng Ủy ban Thường vụ
Quốc hội chưa tán thành1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh
đã mở một chuyên đề nói về án lệ. Trong đó có rất nhiều quan điểm đưa
ra nhằm ủng hộ hay phản đối việc áp dụng án lệ ở Việt Nam. Tuy nhiên,
trong những quan điểm đó, đôi khi còn có sự hiểu không chính xác về án
lệ, án mẫu. Vì vậy, trước khi cân nhắc có nên áp dụng án lệ ở Việt Nam
hiện nay hay không, chúng ta cần phân biệt rõ về án lệ và án mẫu để có
một phương án giải quyết hợp lý.
1. Phân biệt án lệ và án mẫu
1.1. Án lệ
Nói đến án lệ, người ta thường nói đến sự khiếm
khuyết của các quy phạm pháp luật trong một hệ thống pháp luật. Thông
thường án lệ chỉ xuất hiện khi có một sự kiện pháp lý mới nảy sinh mà
chưa có những quy phạm pháp luật thực định điều chỉnh cụ thể về lĩnh vực đó hoặc doxung đột pháp luật mà chưa có các dẫn chiếu pháp luật rõ ràng.
Cơ sở hình thành án lệ chính là những khiếm khuyết
của hệ thống pháp luật. Khi có những khiếm khuyết của hệ thống pháp
luật, tòa án sẽ viện dẫn những căn cứ pháp luật được coi là hợp lý để
đưa ra một phán quyết có tính đột phá và bản án này sẽ được tòa án tối
cao công bố là án lệ để áp dụng chung cho các trường hợp tương tự do khiếm khuyết quy phạm hoặc chưa có dẫn chiếu quy phạm
rõ ràng. Tuy nhiên, việc hình thành án lệ – theo các nhà kinh điển –
cũng không phải là phương thức làm luật tốt. Chẳng hạn, Montesquieu cho
rằng “…Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc
đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là người
đặt ra luật”2.
Ngoài ra, việc xây dựng án lệ cũng phải tuân thủ
những yêu cầu hết sức nghiêm ngặt chứ không chỉ đơn thuần là phán quyết
bất kỳ của toà án tối cao đối với một vấn đề mới. Cụ thể:
- Yêu cầu về tuân thủ các nguyên tắc của lập
pháp: Một bản án chỉ được coi là án lệ nếu nó tuân thủ các học thuyết mà
lập pháp đang theo đuổi. Chẳng hạn, trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nước ta hiện nay, các cơ sở lập pháp không thể không tuân thủ
các nguyên tắc pháp chế mác xít. Vì vậy, trong những hoàn cảnh cụ thể,
nếu án lệ lại sử dụng các nguyên tắc lập pháp phi mác xít thì nó không
được chấp nhận áp dụng. Nguyên tắc lập pháp còn đòi hỏi án lệ phải tuân
thủ các quy định về tính thống nhất quy phạm, nghĩa là án lệ khi được
xây dựng lên không được xung đột với các quy phạm đã tồn tại trước đó.
Ngoài ra, án lệ cũng phải tuân thủ các nguyên tắc về thời hiệu. Án lệ sẽ
bị thay thế và huỷ bỏ bằng những quy phạm pháp luật của các đạo luật
khi khoảng trống pháp lý đó đã được lấp đầy…
- Yêu cầu tuân thủ tính pháp chế: Án lệ khi được xây
dựng lên không phải mặc nhiên được thông qua và được coi là căn cứ pháp
lý hợp pháp để áp dụng chung. Án lệ muốn có được vị trí của mình trong
hệ thống quy phạm pháp luật thì nó phải được thông qua bằng những cơ chế
hợp pháp. Nghĩa là, án lệ do toà án xây dựng lên phải có cơ chế để thừa
nhận nó là một nguồn pháp luật. Thông thường, con đường hợp pháp để
thừa nhận án lệ là bằng những quy phạm pháp luật cụ thể hoặc những dẫn
chiếu pháp lý để thừa nhận án lệ…
1.2. Án mẫu
Án mẫu là những bản án được xây dựng trên những cơ sở
pháp luật hết sức vững chắc mà trong những tình huống như vậy, khó có
thể đưa ra phán quyết khác được; do đó, khi có những tình huống tương tự
thì tòa án phải đưa ra các phán quyết tương tự. Một điểm cần lưu ý là,
khi bản án được coi là án mẫu thì toà án tối cao sẽ chuyển tải đến các
toà án cấp dưới để làm nguồn tham khảo và các toà án cấp dưới coi đó là
những bản án mẫu để xét xử những vụ án tương tự.
Điểm giống nhau giữa án lệ và án mẫu là trong các
điều kiện tương tự thì tòa án đều phải ra những phán quyết chung được
coi là chuẩn mực và các phán quyết đó được thừa nhận như những giá trị
bắt buộc chung. Đây là điều đã gây ra khá nhiều nhầm lẫn giữa án lệ và
án mẫu của nhiều học giả trong thời gian qua.
2. Một số vấn đề trong việc áp dụng án lệ và án mẫu
2.1. Pháp luật hình sự và những điều cấm trong việc sử dụng án lệ
Như đã trình bày trên, án lệ chỉ được hình thành khi
trong quá trình xét xử còn có những khoảng trống pháp luật mà luật chưa
điều chỉnh hết được hoặc có những xung đột pháp luật (chủ yếu là luật
quốc gia và luật quốc tế hoặc một số trường hợp giữa các ngành luật) mà
chưa có dẫn chiếu rõ ràng. Điều này khuyến khích sự sáng tạo của các
thẩm phán trong việc vận dụng các quy phạm pháp luật để áp dụng và nâng
nó lên thành án lệ. Tuy nhiên, trong pháp luật hình sự nước ta cũng như
nhiều nước trên thế giới, hành vi sáng tạo pháp luật trong luật hình sự
là một hành vi bị cấm. Bởi pháp luật hình sự là một loại pháp luật đặc
biệt mang nặng tính trừng trị đối với cá nhân. Cho nên, để bảo vệ sự yếu
thế của cá nhân trong sự đối trọng quyền lực với Nhà nước, hầu hết các
nước đều áp dụng nguyên tắc không có luật là không có tội. Chính vì vậy,
pháp luật hình sự là một “mảnh đất dữ” đối với sự tồn tại của án lệ và
án lệ trong pháp luật hình sự chỉ được thừa nhận nếu nó nghiêng về việc
bảo vệ quyền lợi của kẻ yếu thế – cá nhân. Tương tự, trong mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân, các hành vi xử phạt hành chính cũng là một
“mảnh đất không an lành” đối với sự tồn tại của án lệ, vì các nguyên tắc
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân cũng hạn chế sự sáng tạo pháp
luật nếu nó gây tổn hại cho cá nhân.
2.2. Các căn cứ để áp dụng án mẫu
Không giống như án lệ, có thể nói môi trường áp dụng
của án mẫu trong các quan hệ pháp luật dường như không có những hạn chế
trong các ngành luật vì việc áp dụng án mẫu thường không đi trái các
nguyên tắc pháp lý thông thường.
Như đã trình bày ở trên, việc ra đời của án mẫu xuất
phát từ những cơ sở pháp luật hết sức vững chắc mà trong những tình
huống tương tự khó có thể đưa ra phán quyết khác được. Chính vì vậy, án
mẫu được các nhà thực tiễn hết sức cổ vũ vì nó làm cho việc áp dụng pháp
luật được gần gũi nhau hơn giữa các toà án trong cùng một hệ thống tư
pháp. Chẳng hạn, với một khoảng cách giữa giới hạn trên và giới hạn dưới
khá cao như trong Bộ luật Hình sự nước ta: ở đó mức thấp nhất và mức
cao nhất của cùng một khoản trong một điều luật là khá cao (ví dụ: Khoản
1 các Điều 82, 83, 84, 85 Bộ luật Hình sự có khoảng cách từ mức thấp
nhất đến mức cao nhất là từ 12 năm đến tử hình; Điều 86, Khoản 1, khoảng
cách trên và khoảng cách dưới là 13 năm. Ngoài ra còn có khá nhiều điều
khoản quy định về hình phạt tù có thời hạn có khoảng cách trên và dưới
lên đến 10 năm). Do vậy, nhằm tránh tình trạng có cùng mô tả cấu thành
nhưng có người được áp dụng mức thấp nhất của khung, có người lại được
xử ở khung cao nhất; hoặc có những vụ việc giống nhau nhưng lại có những
phán quyết khác nhau trong các vụ án gây nhiều tranh cãi trong hoạt
động xét xử, thì những bản án mẫu sẽ được tham khảo cho các trường hợp
tương tự nhằm đưa ra phương án xử lý thích hợp nhất.
Tuy nhiên, việc áp dụng án mẫu có những hạn chế và vướng mắc nhất định, như:
- Yêu cầu lập pháp và vấn đề áp dụng án mẫu:
Khi nghiên cứu về các quy phạm pháp luật, các nhà làm luật đều thừa
nhận một điều rằng, các quy phạm pháp luật khi được xây dựng phải đảm
bảo yêu cầu vừa mang tính khái quát nhưng cũng phải dễ hiểu và dễ áp
dụng. Chính vì điều này mà các bộ luật, các luật hay các văn bản quy
phạm thông thường cũng chỉ giới hạn số điều luật nhất định. Ví dụ, nhiều
nhất như Bộ luật Dân sự nước ta năm 1995 cũng chỉ mới có 838 điều và
trong số 838 điều này, có đến 15 điều quy định về các nguyên tắc cơ bản.
Điều đó là dễ hiểu bởi nếu luật muốn viết ra để áp dụng cho mỗi trường
hợp cụ thể như những tập án mẫu thì luật phải chứa đến hàng vạn điều mà
cũng không thể ghi hết được nội dung để áp dụng.
- Tư duy của các nhà làm luật về án mẫu: Trong
lý luận của các nhà làm luật, việc họ xây dựng những khung hình phạt có
sự dao động cao, các quy phạm pháp luật có tính trừu tượng để áp dụng
chung đối với nhiều quan hệ pháp luật không hẳn là không có các lý do
chính đáng của nó. Xuất phát từ lý thuyết cũng như thực tiễn, chúng ta
có thể thấy rằng, cho dù có cùng một hành vi nhưng sự xuất hiện của các
yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau là có thể đưa kết quả của quá
trình xét xử đi đến những chiều hướng khác nhau. Chẳng hạn, cùng hành vi
phạm tội, cùng có những yếu tố cấu thành nhưng yếu tố nhân thân, thái
độ ứng xử trước tòa thể hiện sự ăn năn hay ngoan cố… liệu có nên áp dụng
cùng một mức án mới là hợp lý? Hay cùng một vụ việc dân sự có rất nhiều
yếu tố giống nhau nhưng trong vụ án có đương sự không thuê luật sư, có
vụ án đương sự thuê luật sư, và trong vụ án, sự xuất hiện của luật sư đã
tìm được nhiều tình tiết làm thay đổi bản chất của vụ án, do đó, việc
áp dụng án mẫu có thể coi là hợp lý?
Và trong thực tế, các sự kiện pháp lý xảy ra là muôn
màu muôn vẻ từ những hoàn cảnh khách quan khác nhau, môi trường xã hội
khác nhau, yếu tố tâm, sinh lý khác nhau, thì việc áp dụng những án mẫu
có phù hợp hay không?
Thêm nữa, mục tiêu của quá trình cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay là làm tăng tính độc lập của thẩm phán; do đó, việc
khuyến khích áp dụng án mẫu trong quá trình xét xử có đi trái các mục
tiêu cải cách của hệ thống tư pháp hay không?
- Về lập trình xét xử: Một điều đáng bàn
nữa, đó là vấn đề lập trình xét xử. Nhiều người đã nghĩ đến việc xây
dựng những cỗ máy xét xử để xét xử thay cho các thẩm phán vì chỉ cần nạp
những dữ liệu đầu vào, các cỗ máy đó sẽ đưa ra những dữ liệu đầu ra…
Đây có phải là một lý do chính đáng để mọi người mong muốn có được các
bản án mẫu hay không?
3. Thực tiễn nước ta về vấn đề áp dụng án lệ và án mẫu
3.1. Về án lệ
Trong các văn bản pháp luật của nước ta, việc Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Quốc hội từ chối áp dụng án lệ có phải không có lý
do chính đáng? Về bản chất, thừa nhận án lệ là thừa nhận thẩm quyền làm
luật của Tòa án nhân dân tối cao. Hiện nay, các bộ, ngành đều muốn “làm
luật” và sản phẩm như chúng ta đã biết, đều rất có lợi cho họ và mang
nhiều thiệt hại đến xã hội, liệu Tòa án nhân dân tối cao đã vượt ra khỏi
tầm đó để Quốc hội có thể tin tưởng giao cho trọng trách làm luật? Hơn
nữa, việc trao thẩm quyền này cho Tòa án nhân dân tối cao thì cơ chế nào
để Quốc hội có thể còn giữ được thẩm quyền làm luật theo hiến định?
Án lệ không phải tự nhiên được hình thành mà nó cũng
phải xây dựng trên những cơ sở lý thuyết vững chắc, chẳng hạn xuất phát
từ những học thuyết pháp lý mà hệ thống pháp luật quốc gia đang theo
đuổi và thừa nhận. Ví dụ, việc theo đuổi hệ tư tưởng mác xít trong việc
xây dựng pháp luật ở nước ta đòi hỏi việc hình thành các án lệ phải tuân
thủ các tư tưởng của học thuyết này. Ngược lại, các học thuyết pháp lý
cho dù là kinh điển nhưng đi trái các tư tưởng pháp lý mác xít liệu có
được thừa nhận khi nó được Tòa án nhân dân tối cao công nhận là án lệ?
và nó sẽ được lý giải như thế nào trước các cơ quan lập pháp?
Ở nước ta, việc chưa thể áp dụng án lệ cũng có cơ sở
của nó. Theo cách thức tổ chức quyền lực hiện tại, Tòa án chỉ là một cơ
quan phái sinh đối với Quốc hội; như vậy, về thẩm quyền để ra một bản án
có cơ sở áp dụng lâu dài (án lệ) có lẽ là điều thiếu thực tế vì thẩm
quyền ban hành luật và thẩm quyền phê chuẩn các điều ước quốc tế đều nằm
trong tay Quốc hội; do đó, việc sáng tạo luật chắc cũng khó có cơ chế
dành cho Tòa án. Bên cạnh đó, trong thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước
đến nay cũng chưa thấy viện dẫn được những trường hợp cụ thể về việc
thiếu quy phạm pháp luật điều chỉnh hoặc xung đột pháp luật để làm cơ sở
chính đáng cho việc ra đời một bản án lệ.
Mọi sự việc không phải nhất thành bất biến mà nó luôn
vận động. Án lệ cũng vậy, khi lỗ hổng pháp luật được các cơ quan lập
pháp “lấp đầy” hoặc “vá” nó bằng các quy định pháp luật mới thì án lệ
không được áp dụng nữa, mà nó phải được áp dụng bằng pháp luật thực
định. Do đó, điều kiện tồn tại án lệ cũng phải là những khoảng thời gian
hạn chế và đâu là cơ chế hữu hiệu để xóa bỏ sự tồn tại của một án lệ?
Đó là những câu hỏi chưa thể tìm được câu trả lời thỏa đáng đối với thực
tiễn đời sống pháp lý hiện nay. Vì vậy, vấn đề cơ bản là phải làm rõ cơ
sở thỏa đáng cho việc tồn tại án lệ ở nước ta hiện nay.
3.2. Về án mẫu
Việc cổ động cho những bản án áp dụng chung như án
mẫu đã trình bày trên, mặc dù đạt được tính thống nhất cao trong hoạt
động xét xử, nhưng hạn chế của những bản án này cũng không phải là nhỏ.
Việc cân nhắc giữa lợi và hại, chắc các học giả cũng như các nhà lý
thuyết và thực tiễn nước ta đã xem xét khá kỹ lưỡng. Và cũng khó có thể
đi qua được một số hạn chế, như:
Thứ nhất, làm mất đi tính độc lập của các
thẩm phán và hội đồng xét xử trong hoạt động xét xử. Đồng thời, việc quá
coi trọng án mẫu sẽ biến các thẩm phán thành những cỗ máy xét xử chứ
không phải là hiện thân của công lý và làm mất khả năng cảm nhận công lý
từ phía chính những thẩm phán.
Thứ hai, nó làm tăng sự lệ thuộc của Tòa án
cấp dưới vào Tòa án nhân dân tối cao, làm mất tính năng động của hệ
thống tư pháp vì việc luôn phải trông chờ, cập nhật những phán quyết mới
của Tòa án nhân dân tối cao trong các vụ việc cũng làm giảm sự chủ động
của hệ thống tư pháp.
Thứ ba, việc đề cao các án mẫu thực chất lại
làm mất đi sự hiện thân của xã hội, làm tăng tính máy móc trong các bản
án. Việc đánh giá, xem xét công lý của mỗi vụ án không được quyết định
bởi các thẩm phán khác nhau và các trình độ khác nhau. Và nếu chúng ta
hệ thống hóa thành công toàn bộ các quy phạm pháp luật thực định thành
những bản án mẫu, có lẽ nên thay thế đội ngũ thẩm phán hiện tại bằng đội
ngũ những công chức văn thư lưu trữ để họ có thể dễ dàng tìm kiếm được
hệ thống các bản án mẫu trong kho tư liệu thư viện của Tòa án nhân dân
tối cao để làm căn cứ pháp lý áp dụng cho những vụ án đã được mẫu hóa.
Chú thích:
(1) Xem: Vi Trần – Thanh Tùng, Án lệ, những điều chưa biết, http://phapluattp.vn/20100926111929467p0c1063/an-le-nhung-dieu-chua-biet.htm
(2) Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb. Lý luận chính trị, H., 2004, tr. 106.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ



6:41 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment